1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt
Nam hiện hành (bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017):
- Bộ luật hình sự quy định về hành vi này tại điều 173 bộ luật hình
sự về Tội trộm cắp tài sản. Từ những quy định của bộ luật hình sự
và thực tiễn xét xử đã được thừa nhận có thể định nghĩa: (Tội)
trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người
quản lí được thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm
hại đến quyền sở hữu tài sản.
2. Dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản:
- Dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có người quản lí. Dấu
hiệu chiếm đoạt ở tội trộm cắp tài sản được thực tiễn xét xử từ
trước đến nay hiểu là chiếm đoạt được.Với cách hiểu như vậy, tội
trộm cắp tài sản chỉ coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm
đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được
hay chưa, đã làm chủ được tài sản hay chưa phải dựa vào đặc
điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt.
- Hành vi chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản có hai dấu hiệu phân
biệt với hành vi chiếm đoạt của những tội khác. Đó là dấu hiệu lén
lút và dấu hiệu tài sản đang có người quản lí. Lén lút là dấu hiệu có
nội dung trái ngược với dấu hiệu công khai ởcác tội đã trình bày.
Dấu hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành vị chiếm đoạt
tài sản vừa chỉ ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi đó.
Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm khách quan là lén lút và ý
thức chủ quan của người thựchiện hành vi chiếm đoạt tài sản được
coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà hình thức đó
có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt
khi hành vi này xảy ra.
Nguồn tham khảo: https://bit.ly/3Z8cVn7