





































































Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
Chủ đề bài tập tính toán về một nền kinh tế vĩ mô
Typology: Slides
1 / 77
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
TRƯỜ NG ĐẠ I HỌ C QUẢ NG BÌ NH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Trang Lời nói đầu 3 Chương 1. Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 4 1.1. Khái niệm triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học 4 1.2. Tính quy luật về sự hình thành, phát triển của triết học 5 1.3. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội 6 1.4. Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm 11 Chương 2. Chủ nghĩa duy vật 12 2.1. Tồn tại của thế giới và sự thống nhất của thế giới 12 2.2. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất 14 2.3. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức 21 2.4. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 26 Chương 3. Phép biện chứng duy vật – phương pháp luận nhận thức khoa học và thực tiễn 28 3.1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng và nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật 28 3.2. Phương pháp và phương pháp luận. Một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật 50 Chương 4. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác-Lênin 63 4.1. Phạm trù thực tiễn và phạm trù lý luận 63 4.2. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 67 4.3. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta 71
1.1.1. Khái niệm triết học Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến quan niệm cho rằng: "Triết học là khoa học của mọi khoa học".
triết học là sự nhận thức, giải thích thế giới bằng tư duy lý luận, bằng lập luận lôgíc. Nó đề cao vai trò của lý trí so với tình cảm và niềm tin. Vì thế, triết học được coi là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn luôn gắn liền với các thành tựu của khoa học hiện đại, là sự khái quát các thành tựu khoa học mang lại; đồng thời, nó lại đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan và phương pháp luận thật sự khoa học cho các khoa học cụ thể đánh giá đúng các thành tựu đã đạt được, cũng như xác định đúng phương hướng và phương pháp trong nghiên cứu. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang đạt được nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống xã hội, tình hình thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, thì việc nắm vững thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng không thể thay thế được các khoa học khác. Theo yêu cầu của sự phát triển đòi hỏi phải có sự liên minh chặt chẽ giữa triết học với các khoa học khác. Triết học không chỉ đóng vai trò to lớn đối với các khoa học cụ thể, mà còn có vai trò to lớn đối với rèn luyện năng lực tư duy của con người. Ăngghen chỉ ra: “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” và để hoàn thiện năng lực tư duy lý luận, không có cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước. 1.3.3. Triết học Mác – Lênin trong thời đại ngày nay Trong thời đại ngày nay, chỉ có triết học Mác mà hạt nhân của nó là phép biện chứng duy vật mới có khả năng giải đáp một cách khoa học những vấn đề mà tư tưởng tiến bộ của nhân loại đã đặt ra, soi sáng những nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của xã hội loài người - giải phóng con người và nhân loại, cải biến và xây dựng chế độ xã hội mới mà trong đó, tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ và văn minh là những giá trị nền tảng. Triết học Mác với phát kiến vĩ đại là quan niệm duy vật về lịch sử mà nội dung cốt lõi là lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã và vẫn đang cho thấy ý nghĩa thời đại và sức sống trường tồn của nó. Lý luận này của Mác, ngay từ khi mới ra đời, đã phải hứng chịu sự phê phán của những người phản đối, bác bỏ nó. Giờ đây, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, sự phê phán đó lại càng trở nên quyết liệt hơn nữa với những lập luận về cái gọi là "quy luật chung", "con đường phát triển chung" mà tất cả các dân tộc, dù ở trong điều kiện lịch sử nào, cũng nhất thiết phải tuân theo. Thực tiễn lịch sử nhân loại cũng cho thấy rằng, sự phát triển của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội hay theo lịch sử thế giới đã không diễn ra một cách đơn tuyến hay theo một phương thức đặc thù nào đó. Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, như Ăngghen nhận xét, những cái gì diễn ra không đúng theo ý nghĩa hình thái kinh tế - xã hội lại có thể đúng theo ý nghĩa lịch sử toàn thế giới. Con đường phát triển của các dân
"Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình". C.Mác đã khẳng định như vậy. Triết học Mác cũng thế, nó là "tinh hoa" của thời đại chúng ta. Triết học Mác - thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học, lấy con người làm trung tâm, lấy giải phóng con người, giải phóng nhân loại và phát triển con người toàn diện làm mục tiêu cuối cùng, không chỉ là "tinh hoa" của thời đại chúng ta - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mà còn là tinh hoa trí tuệ của toàn nhân loại , là sự kết tinh những tinh hoa tư tưởng triết học của nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của nó. Với tư cách đó, triết học Mác không chỉ mang ý nghĩa thời đại , mà còn mãi trường tồn với lịch sử nhân loại. Cái làm nên giá trị và sức sống trường tồn của triết học Mác không chỉ ở bản chất cách mạng triệt để và tính khoa học thật sự sâu sắc của nó, ở vai trò thế giới quan và phương pháp luận của nó - kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của cả nhân loại tiến bộ, mà còn ở sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn - cái mà Mác luôn coi là nguyên tắc nền tảng khi xây dựng học thuyết của mình. Mác luôn nhấn mạnh rằng, triết học của ông, học thuyết của ông không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động. Triết học Mác là một hệ thống mở và phát triển, chứ không phải là cái gì đó nhất thành bất biến và do vậy, trong nó còn có những hạn chế nào đó cần phải khắc phục, bổ sung, phát triển thêm thì đó cũng là lẽ tất yếu. C.Mác là một nhà bác học vĩ đại, nhà tư tưởng thiên tài, nhưng ông cũng là “sản phẩm của thời đại của mình” và do vậy, ông vẫn bị quy định bởi chính những điều kiện lịch sử của thời đại mình nên không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Những hạn chế nào đó trong triết học Mác là do lịch sử thời đại quy định, song chúng tuyệt nhiên không làm giảm giá trị thế giới quan và phương pháp luận, giá trị gợi mở và định hướng cũng như bản chất cách mạng và tính khoa học của nó. Hiện nay, do bối cảnh lịch sử quy định và do những biến cố hiện thời của lịch sử nhân loại, một số luận điểm, quan niệm nào đó của C.Mác đã trở nên không còn thích hợp với điều kiện lịch sử mới, song không phải vì thế mà triết học Mác mất đi ý nghĩa thời đại của nó. Bản chất cách mạng và tính khoa học của nó vẫn mãi trường tồn với lịch sử nhân loại, vẫn là cơ sở nền tảng để có thể khẳng định “kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một” đối với chúng ta trong công cuộc đổi mới đất nước. Ý nghĩa thời đại và sức sống trường tồn của triết học Mác chính là cơ sở để chúng ta khẳng định xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã xác định khi lựa chọn con đường đổi mới là hoàn toàn đúng đắn và có cơ sở khoa học. Sự đúng
đắn và cơ sở khoa học đó bắt nguồn từ bản chất cách mạng và tính khoa học của triết học Mác. 1.4. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM 1.4.1. Vấn đề cơ bản của triết học
Nói chung, chủ nghĩa duy vật hiểu sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản chất của nó là vật chất. Trái lại, các nhà triết học duy tâm tìm nguồn gốc và bản chất của tồn tại cái tinh thần và cho rằng chỉ thế giới tinh thần mới tồn taị. Ngay cả trong triết học Hêghen, một học thuyết nhất nguyên triệt để rốt cuộc vẫn xem bản chất của tồn tại là cái tinh thần vì giới tự nhiên cũng chỉ là tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của nó; song sự thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó. Ăngghen viết : “tính thống nhất cuả thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã”. Sự khác nhău căn bản giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm không phải ở việc thừa nhận hay không thừa nhận tính thống nhất của thế giới mà ở chỗ chủ nghĩa duy vật cho rằng cơ sở của sự thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó. Quan niêm này thể hiện nhất nguyên luận duy vật triệt để; nó dựa trên sự tổng kết những thành tựu nhân loại đã đạt được trong hoạt động thực tiễn, trong triết học cũng như trong khoa học. Ăngghen viết : “tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên”. 2.1.2. Tính thống nhất vật chất của thế giới Các nhà triết học duy tâm đi tìm nguồn gốc bản chất của thế giới ở “ý niệm tuyệt đối” hoặc ở ý thức con người và khẳng định rằng sở dĩ thế giới là thống nhất vì nó được người ta nghĩ về nó như cái thống nhất. Ăngghen chỉ rõ: “tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của sự thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã”. “Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó”. Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất ấy. Điều đó được thể hiện ở các điểm cơ bản sau đây: Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người. Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan và phổ biến của thế giới vật chất. Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài các quá trình vật chất đang vận động, biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và là kết quả của nhau. Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi chính cuộc sống hiện thực của con người và nó trở thành cơ sở cho cuộc sống và hoạt động của con người. Con người không thể bằng ý thức mà sản sinh ra các đối tượng vật chất mà chỉ có thể cải biến thế giới vật chất theo những quy luật vốn có của nó. Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật biện chứng có cơ sở khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng đều có cùng bản chất vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Như vậy, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số biểu hiện muôn hình muôn vẻ. 2.2. VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT 2.2.1. Định nghĩa phạm trù vật chất Việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh ta, mà trước hết là thế giới những vật thể hữu hình, từ xưa tới nay luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học, bằng cách này hay cách khác đều giải quyết vấn đề này. Do đó, trong triết học, phạm trù vật chất xuất hiện. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2500 năm. Ngay từ lúc mới ra đời, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, giống như mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người và với sự hiểu biết của con người về giới tự nhiên. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là “ý chí của thượng đế” là “ý niệm tuyệt đối”.... Chẳng hạn, Platôn cho rằng, vật chất bắt nguồn từ “ý niệm” , sự vật cảm tính là cái bóng của “ý niệm”. Hêghen cho rằng vật chất là do “ý niệm tuyệt đối” sinh ra. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
chất. Kế thừa quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cận đại vẫn coi nguyên tử là phân tử nhỏ nhất, không thể phân chia được; tách rời nguyên tử với vận động, không gian và thời gian. .. Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất
quan hệ với phạm trù đối lập với nó - phạm trù ý thức, trong đó vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy, định nghiã phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như sau: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Ở định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng: Trước hết, cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triêt học (chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, ko được sinh ra và ko bị mất đi) với vật chất của các khoa học cụ thể (có giới hạn, có sinh, có diệt để chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác). Cho nên ko được đồng nhất vật chất với vật thể. Thứ hai, trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất đó là thuộc tính khách quan – tức là cái đang tồn tại bên ngoài ý thức và độc lập với ý thức, cảm giác con người. Cho nên về mặt nhận thức luận, vật chất ko có nghĩa gì khác hơn đó chính là “ thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh”. Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau :
đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất. Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản.
vận động trong cân bằng và có cân bằng trong vận động (một cách tương đối). Nhưng bất kỳ vận động tương đối riêng biệt nào (...) cũng đều có xu hướng khôi phục lại sự đứng yên tương đối, sự cân bằng. Khả năng đứng yên tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất”. Đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im tương đối (hay là trạng thái cân bằng tạm thời của sự vật trong quá trình vận động của nó) là: Trước hết, hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là trong mối quan hệ với bến cảng, còn so với mặt trời, các thiên thể khác thì nó vận động theo sự vận động của quả đất. Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là nói vận động cơ học, nhưng ngay lúc đó thì vận động vật lý, vận động hoá học cứ diễn ra trong bản thân nó. Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật, một cây, một con, v.v.., trong khi nó còn là nó chưa bị phân hoá thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển hoá tiếp theo. Không có đứng im tương đối thì không có sự vật nào cả. Do đó đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Thứ tư, là vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó, còn vận động nói chung, tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho tất cả không ngừng biến đổi. Vì thế đứng im chỉ là một hiện tượng tạm thời. Ăngghen chỉ rõ “vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt” và “mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời”. 2.2.3. Không gian và thời gian Trong triết học Mác - Lênin, cùng với phạm trù vận động thì không gian và thời gian là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật chất. Lênin đã nhận xét rằng “trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”. Trong lịch sử triết học, không gian và thời gian là những phạm trù đã được xuất hiện sớm. Ngay thời xa xưa người ta đã hiểu rằng bất kỳ khách thể vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan về mặt kích thước so với khách thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của vật thể được gọi là không gian.