Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

Tìm hiểu về các dạng bài tập liên quan, Slides of Macroeconomics

Chủ đề bài tập tính toán về một nền kinh tế vĩ mô

Typology: Slides

2023/2024

Uploaded on 03/17/2025

le-nguyet-1
le-nguyet-1 🇻🇳

1 document

1 / 77

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
1
TRƯNG ĐI HC QUNG BNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)
“CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG”
(Dành cho ĐH GDCT)
Tác giả: Nguyn Th Thanh Hà
Năm 2017
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15
pf16
pf17
pf18
pf19
pf1a
pf1b
pf1c
pf1d
pf1e
pf1f
pf20
pf21
pf22
pf23
pf24
pf25
pf26
pf27
pf28
pf29
pf2a
pf2b
pf2c
pf2d
pf2e
pf2f
pf30
pf31
pf32
pf33
pf34
pf35
pf36
pf37
pf38
pf39
pf3a
pf3b
pf3c
pf3d
pf3e
pf3f
pf40
pf41
pf42
pf43
pf44
pf45
pf46
pf47
pf48
pf49
pf4a
pf4b
pf4c
pf4d

Partial preview of the text

Download Tìm hiểu về các dạng bài tập liên quan and more Slides Macroeconomics in PDF only on Docsity!

TRƯỜ NG ĐẠ I HỌ C QUẢ NG BÌ NH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

GIÁO TRÌNH

(Lưu hành nội bộ)

“CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG”

(Dành cho ĐH GDCT)

Tác giả: Nguyễ n Thị Thanh Hà

Năm 2017

MỤC LỤC

Trang Lời nói đầu 3 Chương 1. Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 4 1.1. Khái niệm triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học 4 1.2. Tính quy luật về sự hình thành, phát triển của triết học 5 1.3. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội 6 1.4. Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm 11 Chương 2. Chủ nghĩa duy vật 12 2.1. Tồn tại của thế giới và sự thống nhất của thế giới 12 2.2. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất 14 2.3. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức 21 2.4. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 26 Chương 3. Phép biện chứng duy vật – phương pháp luận nhận thức khoa học và thực tiễn 28 3.1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng và nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật 28 3.2. Phương pháp và phương pháp luận. Một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật 50 Chương 4. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác-Lênin 63 4.1. Phạm trù thực tiễn và phạm trù lý luận 63 4.2. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 67 4.3. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta 71

CHƯƠNG 1

TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG X Ã HỘI

(5 TIẾT)

1.1. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA

TRIẾT HỌC

1.1.1. Khái niệm triết học Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.

  • Ở Trung Quốc, triết có nghĩa là trí tuệ, là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con người để đi đến đạo lý của sự vật.
  • Ở Ấn Độ: Triết học được đọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
  • Theo tiếng Hy Lạp: Triết có nghĩa là yêu mến sự thông thái (Philosophia). Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu triết học đã là hoạt động tinh thần của con người, coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất sự vật. Với ý nghĩa đó, triết học được định nghĩa như sau: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Nguồn gốc của triết học : Sự ra đời của triết học do hai nguồn gốc:
  • Nguồn gốc nhận thức: sự phát triển của tư duy trừu tượng cho phép trừu tượng hóa, khái quát những tri thức cụ thể, riêng lẻ thành hệ thống tri thức lý luận chung nhất.
  • Nguồn gốc xã hội: Triết học ra đời khi lực lượng sản xuất đã đạt đến một trình độ nhất định, khi lao động trí óc đã trở thành một lĩnh vực độc lập tách khỏi lao động chân tay, khi xã hội đã phân chia thành giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. 1.1.2. Đối tượng của triết học Triết học ra đời từ thời kỳ cổ đại. Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.
  • Thời kỳ cổ đại: Khi mới bắt đầu có sự phân chia giữa lao động trí óc với lao động chân tay, tri thức của loài người còn rất ít, chưa có sự phân chia giữa triết học với các khoa học khác thành những khoa học độc lập. Ở Trung Quốc, triết học gắn liền với những vấn đề chính trị - xã hội; ở Ấn Độ, triết học gắn liền với tôn giáo, ở Hy Lạp, triết học gắn liền với khoa học tự nhiên và được gọi là khoa học tự nhiên. Do đó, đối tượng nghiên cứu của triết học là mọi lĩnh vực tri thức, bao hàm

trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến quan niệm cho rằng: "Triết học là khoa học của mọi khoa học".

  • Thời kỳ trung cổ: Do sự thống trị của Giáo hội Thiên Chúa giáo trên mọi mặt của đời sống xã hội, triết học trở thành bộ môn của thần học, gọi là triết học kinh viện. Nhiệm vụ chủ yếu của nó là lý giải, chứng minh cho sự đúng đắn những nội dung trong kinh thánh nên nó không có điều kiện phát triển.
  • Thời kỳ Phục hưng và cận đại thế kỷ XVII - XVIII: bắt đầu có sự xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, khoa học tự nhiên phát triển, các ngành khoa học cụ thể dần dần tách khỏi triết học trở thành những môn khoa học độc lập. Tuy vậy, lúc bấy giờ đối tượng của triết học cũng chưa được xác lập một cách đúng đắn. Triết học vẫn gắn liền với khoa học tự nhiên và quan niệm sai lầm cho rằng "triết học là khoa học của mọi khoa học" vẫn còn tồn tại.
  • Vào những năm 40 thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời. Với tính cách mạng và khoa học, triết học Mác đã đoạn tuyệt triệt để quan niệm "triết học là khoa học của mọi khoa học" và xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để ; nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. 1 .2. TÍNH QUY LUẬT VỀ SỰ HÌNH THÀNH , PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌ C
  • Là một hình thái ý thức xã hội, sự ra đời và phát triển của triết học luôn luôn gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội của thời đại và mỗi dân tộc. Bởi vì, các nhà triết học đều sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định nên tư tưởng triết học của họ phản ánh những điều kiện đó, có kế thừa những thành tựu văn hóa, tư tưởng của dân tộc và nhân loại trong thời đại của mình và không thể thoát ra khỏi những hạn chế nhất định của thời đại mình đang sống.
  • Sự ra đời và phát triển của triết học gắn liền với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội. Vì mỗi nhà triết học đều sống trong những giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định, nên tư tưởng triết học của họ cũng phản ánh và bảo vệ lợi ích của những giai cấp, tầng lớp nhất định. Mỗi giai cấp, mỗi lực lượng xã hội khác nhau sẽ xây dựng nên các hệ thống triết học khác nhau.
  • Gắn liền, chịu sự tác động và tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác như khoa học, chính trị, tôn giáo… Ví dụ, triết học chịu ảnh hưởng và tác động đến chính trị, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, v.v. Sự tác động qua lại lẫn nhau đó làm cho triết học phát triển rất đa dạng về mặt hình thức.
  • Là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát, sự phát triển của triết học ko thể tách rời các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự phát

triết học là sự nhận thức, giải thích thế giới bằng tư duy lý luận, bằng lập luận lôgíc. Nó đề cao vai trò của lý trí so với tình cảm và niềm tin. Vì thế, triết học được coi là hạt nhân lý luận của thế giới quan.

  • Thế giới quan vừa là kết quả của sự nhận thức thế giới của con người, vừa đóng vai trò lăng kính qua đó con người xem xét, nhìn nhận thế giới, định hướng hoạt động của con người. Chức năng phương pháp luận của triết học
  • Phương pháp luận (methodology) là lý luận về phương pháp, khoa học về phương pháp. Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định, lựa chọn phương pháp cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
  • Phương pháp luận có nhiều cấp độ:
  • Phương pháp luận ngành: là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể.
  • Phương pháp luận chung: được sử dụng cho nhiều ngành khoa học
  • Phương pháp luận chung nhất hay phương pháp luận triết học: được áp dụng cho toàn bộ hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của của con người và là cơ sở lý luận để xây dựng phương pháp luận của các ngành khoa học.
  • Phương pháp luận có thể là khoa học hay không khoa học.
  • Nếu xuất phát từ phương pháp luận đúng đắn thì sẽ xác định được phương pháp đúng đắn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
  • Ngược lại, nếu xuất phát từ phương pháp luận sai lầm thì sẽ áp dụng những phương pháp không đúng cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
  • Trong lịch sử triết học có hai phương pháp nhận thức thế giới đối lập nhau: phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. 1.3.2. Vai trò của triết học đối với các khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận Sự hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của các khoa học cụ thể. Tuy nhiên, triết học có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của các khoa học cụ thể, nó là thế giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt được, cũng như vạch ra phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu của các khoa học cụ thể. Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển của khoa họ; ngược lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm công cụ biện hộ cho tôn giáo và cản trở sự phát triển của khoa học.

Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn luôn gắn liền với các thành tựu của khoa học hiện đại, là sự khái quát các thành tựu khoa học mang lại; đồng thời, nó lại đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan và phương pháp luận thật sự khoa học cho các khoa học cụ thể đánh giá đúng các thành tựu đã đạt được, cũng như xác định đúng phương hướng và phương pháp trong nghiên cứu. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang đạt được nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống xã hội, tình hình thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, thì việc nắm vững thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng không thể thay thế được các khoa học khác. Theo yêu cầu của sự phát triển đòi hỏi phải có sự liên minh chặt chẽ giữa triết học với các khoa học khác. Triết học không chỉ đóng vai trò to lớn đối với các khoa học cụ thể, mà còn có vai trò to lớn đối với rèn luyện năng lực tư duy của con người. Ăngghen chỉ ra: “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” và để hoàn thiện năng lực tư duy lý luận, không có cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước. 1.3.3. Triết học Mác – Lênin trong thời đại ngày nay Trong thời đại ngày nay, chỉ có triết học Mác mà hạt nhân của nó là phép biện chứng duy vật mới có khả năng giải đáp một cách khoa học những vấn đề mà tư tưởng tiến bộ của nhân loại đã đặt ra, soi sáng những nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của xã hội loài người - giải phóng con người và nhân loại, cải biến và xây dựng chế độ xã hội mới mà trong đó, tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ và văn minh là những giá trị nền tảng. Triết học Mác với phát kiến vĩ đại là quan niệm duy vật về lịch sử mà nội dung cốt lõi là lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã và vẫn đang cho thấy ý nghĩa thời đại và sức sống trường tồn của nó. Lý luận này của Mác, ngay từ khi mới ra đời, đã phải hứng chịu sự phê phán của những người phản đối, bác bỏ nó. Giờ đây, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, sự phê phán đó lại càng trở nên quyết liệt hơn nữa với những lập luận về cái gọi là "quy luật chung", "con đường phát triển chung" mà tất cả các dân tộc, dù ở trong điều kiện lịch sử nào, cũng nhất thiết phải tuân theo. Thực tiễn lịch sử nhân loại cũng cho thấy rằng, sự phát triển của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội hay theo lịch sử thế giới đã không diễn ra một cách đơn tuyến hay theo một phương thức đặc thù nào đó. Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, như Ăngghen nhận xét, những cái gì diễn ra không đúng theo ý nghĩa hình thái kinh tế - xã hội lại có thể đúng theo ý nghĩa lịch sử toàn thế giới. Con đường phát triển của các dân

"Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình". C.Mác đã khẳng định như vậy. Triết học Mác cũng thế, nó là "tinh hoa" của thời đại chúng ta. Triết học Mác - thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học, lấy con người làm trung tâm, lấy giải phóng con người, giải phóng nhân loại và phát triển con người toàn diện làm mục tiêu cuối cùng, không chỉ là "tinh hoa" của thời đại chúng ta - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mà còn là tinh hoa trí tuệ của toàn nhân loại , là sự kết tinh những tinh hoa tư tưởng triết học của nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của nó. Với tư cách đó, triết học Mác không chỉ mang ý nghĩa thời đại , mà còn mãi trường tồn với lịch sử nhân loại. Cái làm nên giá trị và sức sống trường tồn của triết học Mác không chỉ ở bản chất cách mạng triệt để và tính khoa học thật sự sâu sắc của nó, ở vai trò thế giới quan và phương pháp luận của nó - kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của cả nhân loại tiến bộ, mà còn ở sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn - cái mà Mác luôn coi là nguyên tắc nền tảng khi xây dựng học thuyết của mình. Mác luôn nhấn mạnh rằng, triết học của ông, học thuyết của ông không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động. Triết học Mác là một hệ thống mở và phát triển, chứ không phải là cái gì đó nhất thành bất biến và do vậy, trong nó còn có những hạn chế nào đó cần phải khắc phục, bổ sung, phát triển thêm thì đó cũng là lẽ tất yếu. C.Mác là một nhà bác học vĩ đại, nhà tư tưởng thiên tài, nhưng ông cũng là “sản phẩm của thời đại của mình” và do vậy, ông vẫn bị quy định bởi chính những điều kiện lịch sử của thời đại mình nên không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Những hạn chế nào đó trong triết học Mác là do lịch sử thời đại quy định, song chúng tuyệt nhiên không làm giảm giá trị thế giới quan và phương pháp luận, giá trị gợi mở và định hướng cũng như bản chất cách mạng và tính khoa học của nó. Hiện nay, do bối cảnh lịch sử quy định và do những biến cố hiện thời của lịch sử nhân loại, một số luận điểm, quan niệm nào đó của C.Mác đã trở nên không còn thích hợp với điều kiện lịch sử mới, song không phải vì thế mà triết học Mác mất đi ý nghĩa thời đại của nó. Bản chất cách mạng và tính khoa học của nó vẫn mãi trường tồn với lịch sử nhân loại, vẫn là cơ sở nền tảng để có thể khẳng định “kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một” đối với chúng ta trong công cuộc đổi mới đất nước. Ý nghĩa thời đại và sức sống trường tồn của triết học Mác chính là cơ sở để chúng ta khẳng định xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã xác định khi lựa chọn con đường đổi mới là hoàn toàn đúng đắn và có cơ sở khoa học. Sự đúng

đắn và cơ sở khoa học đó bắt nguồn từ bản chất cách mạng và tính khoa học của triết học Mác. 1.4. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM 1.4.1. Vấn đề cơ bản của triết học

  • Theo Ăngghen: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại". Bất kỳ hệ thống triết học nào cũng đều giải đáp mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức, đó được coi là vấn đề cơ bản hay vấn đề lớn của triết học. Bởi vì, việc giải quyết vấn đề này được coi là cơ sở, là nền tảng, là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác. Đồng thời là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ.
  • Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn: Mặt thứ nhất : Giữa vật chất và ý thức thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định? Mặt thứ hai : Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học. 1.4.2. Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm trong triết học - Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn:
  • Chủ nghĩa duy vật: cho rằng vật chất, giới tự nhiên có trước và quyết định ý thức của con người. + Chủ nghĩa duy tâm: cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên. _ Chủ nghĩa duy vật:_* Xuất hiện từ thời cổ đại. Cho đến nay, nó được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật siêu hình (TK XV đến XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ XVII, XVIII). Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển phát triển nên chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cao của chủ nghĩa duy vật, do Mác và Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển.

Nói chung, chủ nghĩa duy vật hiểu sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản chất của nó là vật chất. Trái lại, các nhà triết học duy tâm tìm nguồn gốc và bản chất của tồn tại cái tinh thần và cho rằng chỉ thế giới tinh thần mới tồn taị. Ngay cả trong triết học Hêghen, một học thuyết nhất nguyên triệt để rốt cuộc vẫn xem bản chất của tồn tại là cái tinh thần vì giới tự nhiên cũng chỉ là tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của nó; song sự thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó. Ăngghen viết : “tính thống nhất cuả thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã”. Sự khác nhău căn bản giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm không phải ở việc thừa nhận hay không thừa nhận tính thống nhất của thế giới mà ở chỗ chủ nghĩa duy vật cho rằng cơ sở của sự thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó. Quan niêm này thể hiện nhất nguyên luận duy vật triệt để; nó dựa trên sự tổng kết những thành tựu nhân loại đã đạt được trong hoạt động thực tiễn, trong triết học cũng như trong khoa học. Ăngghen viết : “tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên”. 2.1.2. Tính thống nhất vật chất của thế giới Các nhà triết học duy tâm đi tìm nguồn gốc bản chất của thế giới ở “ý niệm tuyệt đối” hoặc ở ý thức con người và khẳng định rằng sở dĩ thế giới là thống nhất vì nó được người ta nghĩ về nó như cái thống nhất. Ăngghen chỉ rõ: “tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của sự thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã”. “Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó”. Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất ấy. Điều đó được thể hiện ở các điểm cơ bản sau đây: Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người. Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết

cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan và phổ biến của thế giới vật chất. Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài các quá trình vật chất đang vận động, biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và là kết quả của nhau. Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi chính cuộc sống hiện thực của con người và nó trở thành cơ sở cho cuộc sống và hoạt động của con người. Con người không thể bằng ý thức mà sản sinh ra các đối tượng vật chất mà chỉ có thể cải biến thế giới vật chất theo những quy luật vốn có của nó. Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã giúp cho chủ nghĩa duy vật biện chứng có cơ sở khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng đều có cùng bản chất vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Như vậy, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số biểu hiện muôn hình muôn vẻ. 2.2. VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT 2.2.1. Định nghĩa phạm trù vật chất Việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh ta, mà trước hết là thế giới những vật thể hữu hình, từ xưa tới nay luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học, bằng cách này hay cách khác đều giải quyết vấn đề này. Do đó, trong triết học, phạm trù vật chất xuất hiện. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2500 năm. Ngay từ lúc mới ra đời, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, giống như mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người và với sự hiểu biết của con người về giới tự nhiên. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là “ý chí của thượng đế”“ý niệm tuyệt đối”.... Chẳng hạn, Platôn cho rằng, vật chất bắt nguồn từ “ý niệm” , sự vật cảm tính là cái bóng của “ý niệm”. Hêghen cho rằng vật chất là do “ý niệm tuyệt đối” sinh ra. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.

chất. Kế thừa quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cận đại vẫn coi nguyên tử là phân tử nhỏ nhất, không thể phân chia được; tách rời nguyên tử với vận động, không gian và thời gian. .. Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất

  • Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế ky XX, khi xuất hiện những phát minh mới trong khoa học tự nhiên, con người mới có những hiểu biết căn bản hơn, sâu sắc hơn về nguyên tử. Năm 1895 Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã bác bỏ quan niệm bất biến của nguyên tử. Năm 1897 Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử đã được chứng minh bằng thực nghiệm. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tĩnh, mà là khối lượng thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử. Những phát hiện đó là bước tiến mới của loài người trong việc nhận thức và làm chủ giới tự nhiên, nó bác bỏ quan điểm siêu hình về vật chất. Những quan niệm đương thời về giới hạn tột cùng của vật chất là nguyên tử hoặc khối lượng đã sụp đổ trước khoa học ... Lênin đã khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên và chỉ rõ rằng vật chất không bị tiêu tan, chủ nghĩa duy vật không bị sụp đổ. Cái bị tiêu tan, bị sụp đổ chính là giới hạn hiểu biết trước đây về vật chất, là quan điểm siêu hình - máy móc trong nhận thức khoa học cho rằng giới tự nhiên là có tận cùng về cấu trúc; cho rằng giới hạn cuối cùng, bất biến của giới tự nhiên là nguyên tử hoặc khối lượng v.v.. Từ đó Lênin kết luận “Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử; tự nhiên là vô tận”. Đồng thời Lênin chỉ rõ rằng, sự thay thế của một số khái niệm này bằng một số khái niệm khác trong nhận thức về thế giới chỉ chứng tỏ khoa học, sự phản ánh hiện thực khách quan cứ hoàn thiện mãi lên, chứng tỏ sự hiểu biết của con người ngày thêm sâu sắc. Theo nghĩa ấy mà nói, thì vật lý học lúc đó đang trải qua bước “khủng hoảng” trưởng thành và nguyên nhân của sự khủng hoảng đó nằm ngay trong bước nhảy vọt của nhận thức con người khi chuyển từ thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô. Trên cơ sở phân tích ấy, Lênin đưa ra định nghiã vật chất, một định nghiã mà cho tới nay các nhà khoa học hiện đại vẫn thừa nhận. Theo Lênin phạm trù vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực”, rộng nhất, mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được. Khi định nghĩa phạm trù này, không thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn vì đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong

quan hệ với phạm trù đối lập với nó - phạm trù ý thức, trong đó vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy, định nghiã phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như sau: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Ở định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng: Trước hết, cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triêt học (chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, ko được sinh ra và ko bị mất đi) với vật chất của các khoa học cụ thể (có giới hạn, có sinh, có diệt để chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác). Cho nên ko được đồng nhất vật chất với vật thể. Thứ hai, trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất đó là thuộc tính khách quan – tức là cái đang tồn tại bên ngoài ý thức và độc lập với ý thức, cảm giác con người. Cho nên về mặt nhận thức luận, vật chất ko có nghĩa gì khác hơn đó chính là “ thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh”. Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau :

  • Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
  • Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của con người.
  • Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Điều đó cũng nói lên rằng vật chất là thực tại khách quan, là cái có trước; ý thức là cái có sau. Nó là tất cả những gì tồn tại khách quan ko phụ thuộc vào ý thức và khi tác động vào giác quan thì gây nên cảm giác. Đó chính là tiêu chuẩn để phân biệt vật chất với cái gì ko phải là vật chất. Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của Lênin Với những nội dung cơ bản như trên, phạm trù vật chất trong định nghĩa của Lênin có nhiều ý nghĩa to lớn: Giải quyết được 2 mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng. Khi khẳng định vật chất là “ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”, Lênin đã thừa nhận rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái “được cảm giác của chúng ta chep lại, chụp lại, phản ánh”, Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận

đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất. Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản.

  • Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
  • Vận động vật lý: vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt điện, v.v.
  • Vận động hoá học: vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân giải các chất.
  • Vận động sinh học: Quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.
  • Vận động xã hội: sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội. Nguyên tắc quan hệ giữa chúng là:
  • Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất.
  • Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Tuy nhiên không có chiều ngược lại.
  • Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Ví dụ trong cơ thể sinh vật có các hình thức vận động khác nhau như vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hoá học, vận động sinh học, nhưng hình thức vận động sinh học mới là đặc trưng cơ bản của sinh vật. Vận động xã hội là hình thức đặc trưng cho hoạt động của con người. Ý nghĩa của sự phân loại các hình thức vận động:
  • Đặt cơ sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với đối tượng nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học.
  • Là cơ sở để chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận thức là quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại. Khi triết học Mác - Lênin khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh cửu của nó, thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng đứng im của thế giới vật chất. Trái lại, triết học Mác - Lênin thừa nhận rằng, quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối ; không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được. “Trong vận động của các thiên thể, có

vận động trong cân bằng và có cân bằng trong vận động (một cách tương đối). Nhưng bất kỳ vận động tương đối riêng biệt nào (...) cũng đều có xu hướng khôi phục lại sự đứng yên tương đối, sự cân bằng. Khả năng đứng yên tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất”. Đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im tương đối (hay là trạng thái cân bằng tạm thời của sự vật trong quá trình vận động của nó) là: Trước hết, hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là trong mối quan hệ với bến cảng, còn so với mặt trời, các thiên thể khác thì nó vận động theo sự vận động của quả đất. Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là nói vận động cơ học, nhưng ngay lúc đó thì vận động vật lý, vận động hoá học cứ diễn ra trong bản thân nó. Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật, một cây, một con, v.v.., trong khi nó còn là nó chưa bị phân hoá thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển hoá tiếp theo. Không có đứng im tương đối thì không có sự vật nào cả. Do đó đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Thứ tư, là vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó, còn vận động nói chung, tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho tất cả không ngừng biến đổi. Vì thế đứng im chỉ là một hiện tượng tạm thời. Ăngghen chỉ rõ “vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt” và “mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời”. 2.2.3. Không gian và thời gian Trong triết học Mác - Lênin, cùng với phạm trù vận động thì không gianthời gian là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật chất. Lênin đã nhận xét rằng “trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”. Trong lịch sử triết học, không gian và thời gian là những phạm trù đã được xuất hiện sớm. Ngay thời xa xưa người ta đã hiểu rằng bất kỳ khách thể vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan về mặt kích thước so với khách thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của vật thể được gọi là không gian.