Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

phan-tich-cho-vi-du-minh-hoa-de-lam-ro-dau-hieu, Schemes and Mind Maps of Labour Law

phan-tich-cho-vi-du-minh-hoa-de-lam-ro-dau-hieu

Typology: Schemes and Mind Maps

2024/2025

Uploaded on 02/28/2025

ngoc-loc
ngoc-loc 🇻🇳

8 documents

1 / 16

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
lOMoARcPSD|27879799
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật hình sự
BLHS
: Bộ luật dân sự
CTTP
: Cấu thành tội phạm
LĐCĐTS
: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
TNHS : Trách nhiệm hình sự
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff

Partial preview of the text

Download phan-tich-cho-vi-du-minh-hoa-de-lam-ro-dau-hieu and more Schemes and Mind Maps Labour Law in PDF only on Docsity!

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS : Bộ luật hình sự BLHS : Bộ luật dân sự CTTP : Cấu thành tội phạm LĐCĐTS : Lừa đảo chiếm đoạt tài sản TNHS : Trách nhiệm hình sự

P a g e | 2 A. MỞ ĐẦU Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) là một trong những tội xâm phạm sở hữu phổ biến và điển hành trong xã hội hiện nay. Thời gian gần đây, loại tội phạm này ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn quy mô với những thủ đoạn lừa dối ngày càng đa dạng, tinh vi và xảo quyệt. Với mong muốn được tìm hiểu kĩ hơn về dấu hiệu pháp lý của tội LĐCĐTS được quy định trong BLHS Việt Nam, em xin chọn đề bài số 02 của bộ môn đưa ra làm đề tài trong bài tiểu luận lần này. Đề bài: Phân tích, cho ví dụ minh họa để làm rõ dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 B. NỘI DUNG I. Một số vấn đề chung về tội LĐCĐTS I.1 Khái niệm tội LĐCĐTS LĐCĐTS là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.^1 I.2 Đặc điểm của tội LĐCĐTS Một là, Tội LĐCĐTS xâm hại đến quyền sở hữu của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Đối tượng tác động của tội này là tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác Hai là, hành vi chiếm đoạt tài sản trọng tội lừa đảo đực thực hiện bằng thủ đoạn gian dối, tức là người phạm tội đã đưa ra những thông tin không đúng sự thật để làm người khác tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội. Ba là, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội biết tài sản mà mình chiếm đoạt là tài sản đang thuộc sở hữu hợp pháp của người khác nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình một cách trái pháp luật.^2 II. Dấu hiệu pháp lý của tội LĐCĐTS II.1 Khách thể và đối tượng tác động Khách thể của tội LĐCĐTS là quan hệ sở hữu về tài sản. Quan hệ sở hữu là quan hệ trong đó người sở hữu tài tài sản có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và phải được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Cá nhân, tổ chức (^1) Triệu Thị Tuyết (2019), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr. 7 (^2) Triệu Thị Tuyết (2019), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr. 7

P a g e | 4 II.2.2 Hậu quả của tội phạm Tội LĐCĐTS là tội có cấu thành vật chất, nghĩa là trong CTTP có phản ánh dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội. Hậu quả của tội này là thiệt hại về tài sản mà cụ thể ở đây là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015 thì tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 2.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc các trường hợp quy định tại điểm a, b,c,d khoản 1 Điều 174 thì mới bị truy cứu TNHS về tội LĐCĐTS. Tuy nhiên không vì những quy định trên mà cho rằng phải có thiệt hại mới cấu thành tội này. Vì thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản là thời điểm tội phạm đã hoàn thành. Trường hợp người phạm tội đã có hành vi LĐCĐTS nhưng vì lí do khách quan mà chưa chiếm đoạt được tài sản thì vẫn có thể bị chịu TNHS về tội LĐCĐTS nhưng được áp dụng theo tình tiết phạm tội chưa đạt (Điều 15 BLHS 2015) khi quyết định hình phạt. 3 II.2.3 Mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả của tội phạm Mối quan hệ giữa hành vi vi phạm và hậu quả là mối quan hệ nhân quả được biểu hiện như sau: Thứ nhất, hành vi gian dối phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt. Thứ hai, hành vi gian dối là cơ sở chủ yếu để quyết định việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội. Vì vậy, việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm khác cho xã hội nên việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả không chỉ có ý nghĩa về mặt định tội mà còn có ý nghĩa trong việc quyết định khung hình phạt. 4 II.3 Chủ thể của tội phạm Căn cứ vào BLHS 2015 thì chủ thể của tội LĐCĐTS phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và không ở trong tình trạng được coi là không có năng lực TNHS theo quy định tại Điều 21 BLHS 2015. Căn cứ vào khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS về tội chiếm đoạt tài sản trong mọi trường hợp phạm tội Chủ thể của tội LĐCĐTS là chủ thể thường. Chính vì vậy không có ngoại lệ đối với người nước ngoài, người không có quốc tịch. Khi thực hiện hành vi LĐCĐTS trên lãnh thổ Việt Nam thì đều phải chịu TNHS theo pháp luật Việt Nam. Trừ các trường hợp được miễn trừ tư pháp thì TNHS của họ sẽ được giải (^3) Đinh Văn Quế (2015), Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Chương XVI, Nxb. Thông tin và truyền thông, Tr. 248 (^4) Ngô Thị Hạnh (2016), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội.

P a g e | 5 quyết bằng con đường ngoại giao (Theo Điều 5 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung

II.4 Mặt chủ quan của tội phạm 2.4.1 Dấu hiệu lỗi Tội LĐCĐTS được thực hiện do lỗi cố ý. Cụ thể lỗi của tội chiếm đoạt tài sản được biểu hiện như sau:

  • Về lý trí: Người phạm tội khi thực hiện hành vi LĐCĐTS nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả là hình vi của mình gây thiệt hại về tài sản cho người khác, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản
  • Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra mà cụ thể là mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác. 2.4.2 Dấu hiệu động cơ Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tải sản có thể có một hoặc nhiều động cơ khác nhau nhưng chủ yếu là động cơ vụ lợi như do tham lam, do điều kiện hoàn cảnh, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân… tức là người phạm tội muốn thu về những lợi ích vật chất cho mình mình. Tuy nhiên, động cơ phạm tội của tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP. Do vậy không có ý nghĩa trong việc định tội mà chỉ có ý nghĩa trong việc xem xét mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt. 2.4.3 Dấu hiệu mục đích Mục đích của người phạm tội LĐCĐTS là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Có thể nói, mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của CTTP LĐCĐTS. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có mục đích khác với mục đích chiếm đoạt tài sản hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt tài sản của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu TNHS về tội LĐCĐTS. III. Ví dụ minh họa làm rõ dấu hiệu tội pháp lý tội LĐCĐTS theo quy định BLHS năm 2015. III.1 Tóm tắt tình huống. Nguyên Quang C (sinh năm 1993) khi đi làm thuê sơn cho nhà anh T đã lấy trộm chiếc điện thoại Samsung S7 Edge (giá trị 1.500.000 đồng) của anh T. Sau đó C đem đi phá mật khẩu, sử dụng zalo của anh T để hỏi vay tiền chị P (người quen của anh T) nhằm mục đích chiếm đoạt tiền. Nhận được tin nhắn

P a g e | 7 của chị P đã chuyển khoản chính là hành vi chiếm đoạt. Khi C nhận số tiền 5.790.000 của chị P chuyển khoản thì cũng là lúc tội LĐCĐTS của C được coi là hoàn thành. Về hậu quả thiệt hại thì ở đây là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là số tiền 5.790.000 của chị P bị C chiếm đoạt. Với số tiền chiếm đoạt trên thì C đã phạm tội LĐCĐTS theo khoản 1 Điều 174 BLHS và bị xử phạt 12 tháng tù. Trong vụ án trên ta thấy rõ được mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả của tội LĐCĐTS. Thứ nhất, hành vi lừa dối đã diễn ra trước hành vi chiếm đoạt. Hành vi lừa dối của C là hành vi lấy zalo của anh T nhắn hỏi vay tiền chị P và hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tiền mà chị P chuyển vào số tài khoản của bạn gái mình. Như vậy là C nhắn tin cho chị P trước rồi chị P mới chuyển tiền theo tin nhắn mà C gửi chưa không phải chị P chuyển tiền rồi C mới nhắn tin hỏi vay. Vì vậy ta có thể thấy hành vi nhắn tin là cơ sở chủ yếu để quyết định đến việc chị P chuyển tiền. Vì nếu C không nhắn tin thì chị P sẽ không tự chuyển số tiền đó vào tài khoản của bạn gái C. Từ đó gây nên hậu quả thiệt hại về tài sản cho chị P là thiệt hại này phát sinh từ hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Đây chính là biểu hiện của mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả. IV. Thực tiễn về tội phạm hiện nay và việc áp dụng quy định của BLHS năm 2015 về tội LĐCĐTS. IV.1 Thực tiễn về tội phạm LĐCĐTS. Tội phạm LĐCĐTS ngày càng phổ biến và có những thủ đoạn tinh vi hơn. Theo báo cáo của Cục Cảnh sát hình sự, Bộ Công an, từ ngày 25/5/ đến nay, toàn quốc đã phát hiện xảy ra 5.408 vụ "LĐCĐTS" với tài sản bị chiếm đoạt hàng nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, thời gian qua do tác động của việc giãn cách xã hội để phòng, chống dịch COVID-19, hoạt động LĐCĐTS theo phương thức truyền thống giảm, song tội phạm LĐCĐTS lợi dụng không gian mạng để hoạt động có diễn biến phức tạp, thủ đoạn tinh vi xảy ra tại nhiều địa phương. Từ đó gây khó khăn cho cơ quan điều tra trong việc phát hiện và ngăn chặn chặn tội phạm LĐCĐTS. Diễn biến tội phạm ngày càng phức tạp cũng gây ra không ít khó khăn, hạn chế trong việc áp dụng quy định pháp luật về tội LĐCĐTS. 6 (^6) Minh Hiềnề , Tăng cường đấấu tranh v i t i ph m l a đ o chiềmấớ ộ ạ ừ ả đoạt tài s n, Báo Công an nhấn dấn ngày ả 15/11/2021. https://cand.com.vn/Phap-luat/tang-cuong-dau-tranh-voi-toi-pham-lua-dao- chiem-doat-taisan-i634838/

P a g e | 8 IV.2 Thực tiễn việc áp dụng quy định của BLHS năm 2015 về tộiLĐCĐTS. IV.2.1Những điểm tích cực. Thực tiễn nghiên cứu các bản án về tội LĐCĐTS nhận thấy trong quá trình xét xử Hội đồng xét xử khi quyết định hình phạt đều dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt đó là các quy định của BLHS; xem xét những vấn đề về nhân thân người phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS; xem xét mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà người phạm tội đã thực hiện. Nhờ nắm vững các quy định của pháp luật và vận dụng có hiệu quả kinh nghiệm trong công tác xét xử đối với loại tội phạm này nên trong thời gian vừa qua Tòa án các cấp đã xét xử, giải quyết các vụ án đảm bảo đúng người, đúng tội đúng quy định của pháp luật, góp phần giữ gìn ổn định trật tự xã hội. IV.2.2Những điểm hạn chế Bên cạnh những mặt đã đạt được thì việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự vào việc giải quyết vụ án vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong số điển hình là việc các dấu hiệu định tội của tội LĐCĐTS quy định trong BLHS còn thiếu tính minh bạch, gây khó khăn cho quá trình thực thi pháp luật. Bởi dấu hiệu hành vi khách quan của tội LĐCĐTS sản gần giống với một số tội xâm phạm sở hữu khác, chính vì không có sự phân biệt rạch ròi về dấu hiệu của từng tội nên đã có sự nhầm lẫn các tội. Ví dụ như nhầm lẫn giữa trường hợp “lợi dụng chức vụ quyền hạn” LĐCĐTS (Điểm đ, khoản 2 Điều 174) với trường hợp “lạm dụng chức vụ, quyền hạn” lừa dối chiếm đoạt tài sản (Điều

  1. hay nhầm lẫn giữa tội LĐCĐTS với tội “lừa dối khách hàng” (Điều 198), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175). Bên cạnh đó, hiện nay vẫn chưa có văn bản pháp luật mới hướng dẫn áp dụng quy định đối với nhóm các tội xâm phạm sở hữu theo Bộ luật hình sự năm 2015 nên việc áp dụng quy định của pháp luật đối với tội phạm này chưa thống nhất. BLHS hiện hành chưa quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội LĐCĐTS. Các quy định của BLHS về thu hồi tài sản bị chiếm đoạt chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra… Do đó pháp luật nước ta cần phải được hoàn thiện hơn nữa đề phù hợp, hiệu quả với thực tiễn xã hội hiện nay. V. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng quy định của BLHS năm 2015 về tội LĐCĐTS.

P a g e | 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Quốc Hội (2015), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà Nội,Nxb. Lao động
  2. Quốc Hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội, Nxb. Lao động
  3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần cáctội phạm – quyển 1), Hà Nội, 2021, Nxb. Công an nhân dân
  4. Bản án số 415/2021/HSST ngày 08/09/2021 tòa án Nhân dân thành phốThái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
  5. Đinh Văn Quế (2015), Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Chương XVI,Nxb. Thông tin và truyền thông
  6. Ngô Thị Hạnh (2016), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sựViệt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội
  7. Triệu Thị Tuyết (2019), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định củaBộ luật Hình sự năm 2015, luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội
  8. TS Nguyễn Đức Mai, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự hiện hành (Sửađổi, bổ sung năm 2017), NXB Chính trị quốc gia sự thật
  9. ThS Lê Quang Thắng, “Nguyên nhân và giải pháp hạn chế mức độ ẩn củatội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm sát số 14/ 10.Minh Hiền, Tăng cường đấu tranh với tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Báo Công an nhân dân ngày 15/11/2021. https://cand.com.vn/Phap- luat/tang-cuong-dau-tranh-voi-toi-pham-luadao-chiem-doat-tai-san- i634838/, truy cập ngày 28/12/ PHỤ LỤC BẢN ÁN

P a g e | 13 Sinh viên lựa chọn một trong các đề tài sau:

  • P a g e |
  • P a g e |
  • P a g e |
  • P a g e |
  • P a g e |