














































Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
study with me and reach new level
Typology: Study notes
1 / 54
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
Khái quát và phương pháp nghiên cứu KTH. Khái niệm Nhu cầu của mọi người là vô hạn, mọi người đều muốn sử dụng tất cả mọi thứ để thỏa mãn nhu cầu, và luôn muốn sử dụng những sản phẩm mới nhất, đảm bảo chất lượng, thẩm mỹ cao nhất, sản phẩm có chứa nhiều yếu tố công nghệ nhất…Tuy nhiên chúng ta biết rằng khó có thể đạt được điều này vì khả năng thanh toán bị hạn chế. Cũng giống như gia đình, xã hội phải đối mặt với nhiều quyết định. Một xã hội phải phân công xem mọi người sẽ làm những công việc gì và mọi người hưởng thành quả lao động ấy như thế nào? Một số người sẽ phục vụ ngành công nghiệp, một số người sẽ phục vụ lĩnh vực dịch vụ, một số người sẽ phục vụ ngành nông nghiệp…Qua đó mọi người sẽ được phân bổ tất cả sản lượng mà xã hội tạo ra, tất nhiên nó sẽ quyết định ai sẽ ăn gì? Mặc gì? Đi phương tiện gì? Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu phương thức xã hội quản lý các nguồn lực khan hiếm của mình. Nó được đặt trên cơ sở một số ý tưởng cơ bản chi phối hành vi cá nhân, sự tương tác giữa các cá nhân và nền kinh tế. Trong xã hội các nguồn lực đó không thể phân bổ bởi một nhà hoạch định duy nhất nào đó mà thông qua các hoạt động liên hệ qua lại giữa hàng triệu triệu hộ gia đình và doanh nghiệp. Chính vì thế các nhà nghiên cứu kinh tế luôn phải xem mọi người ra quyết định như thế nào: họ mua cái gì, mua bao nhiêu, tiết kiệm bao nhiêu và đầu tư các khoản tiết kiệm này như thế nào? Các nguồn lực được phân bổ thông qua các hoạt động liên hệ qua lại cho các thành viên trong xã hội. Kinh tế học gồm có kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, trong đó: Kinh tế vi mô : là môn học nghiên cứu cách thức ra quyết định của hộ gia đình và các doanh nghiệp, cũng như sự tương tác giữa họ trên các thị trường cụ thể. Kinh tế vĩ mô : là môn học nghiên cứu các hiện tượng của toàn bộ các hoạt động của nền kinh tế, nghĩa là các hoạt động khác nhau của nền kinh tế với tư cách là một tổng thể, một hệ thống lớn bao gồm nhiều hệ thống con hay thị trường cụ thể. Nó giúp chúng ta lý giải những câu hỏi quan trọng có liên quan đến đời sống kinh tế của một quốc gia như điều gì quyết định mức sống và tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, tại sao nền kinh tế thường xuyên biến động, chính phủ có vai trò gì trong thúc đẩy tăng trưởng kiềm chế lạm phát và ổn định thất nghiệp ở mức hợp lý, những thay đổi trong môi trường quốc tế có ảnh hưởng như thế nào đối với thành tựu kinh tế vĩ mô của một nước? Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, vì những thay đổi xảy ra trong nền kinh tế nói chung phát sinh từ các quyết định của hàng triệu triệu cá nhân, do đó không thể hiểu được các hiện tượng kinh tế vĩ mô nếu không đề cập đến các quyết định kinh tế vi mô có liên quan. Mặc dù có mối liên hệ gắn bó giữa kinh
tế vi mô và kinh tế vĩ mô nhưng khi nghiên cứu hai lĩnh vực này hoàn toàn khác nhau chính vì thế cách xử lý vấn đề hay phương pháp tiếp cận cũng sẽ khác nhau. Mười nguyên lý cơ bản của kinh tế học Con người ra quyết định như thế nào?
các doanh nghiệp mua luồng hàng hóa, dịch vụ: luồng tiền Đối với mô hình này, nền kinh tế được giả định chỉ có hai nhóm người quyết định, đó là doanh nghiệp và hộ gia đình. Khi đó các doanh nghiệp sẽ sử dụng những đầu vào như lao động, đất đai và tư bản (tư bản: nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị...) được gọi là các nhân tố sản xuất để sản xuất các hàng hóa dịch vụ. Hộ gia đình được giả định là người sở hữu các nhân tố sản xuất và tiêu dùng toàn bộ hàng hóa dịch vụ mà doanh nghiệp đã sản xuất ra. Các hộ gia đình và doanh nghiệp tương tác với nhau trên thị trường. Đường giới hạn năng lực sản xuất: là đường chỉ ra sự kết hợp sản lượng khác nhau mà nền kinh tế có thể sản xuất ra bằng các nhân tố và công nghệ sản xuất hiện có. Mặc dù nền kinh tế sản xuất ra hàng triệu triệu hàng hóa, dịch vụ, nhưng hãy giả định nền kinh tế chỉ sản xuất hai loại hàng hóa A và B (mặc dù thực tế sản xuất rất nhiều loại hàng hóa dịch vụ), với nguồn lực của nền kinh tế sẽ sản xuất tối đa 1.000 sản phẩm A mà sẽ không có sản phẩm B nào hoặc chỉ sản xuất tối đa được 500 sản phẩm B mà không có sản phẩm. Hình 1. x spA spB
500 x C xD x E A B
Tổng quan về cung và cầu Khái niệm: Cầu là số lượng hàng hóa mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định (trong khi đó các yếu tố khác không đổi). Lượng cầu là lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua có khả năng mua và sẵn sàng mua ở mức giá đã cho trong một thời nhất định. Biểu cầu là bảng mô tả số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua sẵn sàng Đặc điểm, quy luật cung cung - cầu: Số lượng hàng hóa, dịch vụ trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá của hàng hóa giảm xuống và ngược lại. Quy luật cầu tương ứng với trực giác: Khi giá (P) giảm xuống, người tiêu dùng sẽ mua nhiều hơn và những người tiêu dùng mới cũng sẵn sàng và có khả năng xâm nhập thị trường. Giá cả hàng hóa hay dịch vụ tăng thì lượng cầu sẽ giảm và khi giá giảm thì lượng cầu sẽ tăng, khi đó có thể nói lượng cầu tỉ lệ nghịch với giá cả Lưu ý rằng các mối quan hệ về cầu xem xét ở trên là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cầu đối với hàng hóa. Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng cầu: Chúng ta có các yếu tố cơ bản sau đây:
Số lượng hàng hóa được cung ứng trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá của nó tăng lên và ngược lại (các yếu tố khác không đổi). Quy luật cung phản ánh một thực tế là khi giá tăng, động cơ sản xuất hàng hóa tăng lên. Cung cũng được biểu diễn thông qua biểu cung và đồ thị cung. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung:
Đường cung thị trường bao gồm tất cả các cung về hàng hóa dịch vụ nào đó được cung cấp trên thị trường. Tổng cung phụ thuộc vào các yếu tố của mức cung và số lượng người tham gia cung ứng dịch vụ hàng hóa cho thị trường. Cân bằng thị trường: Khái niệm: Cân bằng thị trường là một tình huống trong đó không có sức ép làm cho giá và sản lượng thay đổi. Cân bằng thị trường xuất hiện tại mức giá tại đó lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Mức giá đó gọi là giá cân bằng; sản lượng đó gọi là sản lượng cân bằng, khi đó: QS = QD hoặc PD= PS. Tuy nhiên mức giá và sản lượng cân bằng không nhất thiết phải giống mức giá và sản lượng bán ra. Giá cân bằng ký hiệu là PE, sản lượng cân bằng là QE. Xác định điểm cân bằng: Khi các nhân tố sau đây thay đổi, đường cung hoặc đường cầu sẽ dịch chuyển hình thành nên giá cân bằng mới và sản lượng cân bằng mới. Trạng thái cân bằng là điểm mà tại đó đường cung và đường cầu giao nhau. Mức giá tại điểm này là giá cân bằng và mức sản lượng tại điểm này là sản lượng cân bằng.
E< 1 TR tăng^ TR giảm E= 1 TR không đổi^ TR không đổi Độ co dãn của cầu theo thu nhập: a) Khái niệm : là thước đo sự nhạy cảm của lượng cầu đối với sự thay đổi của thu nhập. Thu nhập có thể có tác dụng khác nhau đến cầu đối với hàng hóa và dịch vụ, phụ thuộc vào bản chất của hàng hóa nên hệ số co dãn của cầu theo thu nhập có thể có giá trị dương có giá trị âm. Cụ thể:
Dịch chuyển cung - cầu Sự vận động theo đường cầu và sự dịch chuyển của đường cầu Khi có sự thay đổi của một trong các yếu tố ảnh hưởng đến cầu đều làm cho lượng cầu thay đổi ở mọi mức giá: nó làm thay đổi cầu. Chúng ta cần phân biệt sự thay đổi của lượng cầu và sự thay đổi của cầu. Lượng cầu tại mỗi mức giá đã cho biểu thị bằng một điểm trên đường cầu (điểm A hoặc điểm B). Chúng ta thấy rằng sự thay đổi của giá tăng từ P 1 đến P 2 (P 1 < P 2 ) dẫn đến sự thay đổi tương ứng của lượng cầu sẽ giảm từ Q 1 đến Q 2 (Q 1 > Q 2 ). Điều này gọi là sự thay đổi của lượng cầu và được minh họa bằng sự vận động dọc theo đường cầu (từ điểm A tới điểm B). Nếu giá cả hàng hóa giảm xuống và các yếu tố khác không đổi thì sẽ có hiện tượng tăng lên của lượng cầu đối với hàng hóa đó và ngược lại. ( hình 2.3 ) Mỗi khi một yếu tố quyết định nhu cầu nào đó thay đổi, trừ giá cả hàng hóa đó thì đường cầu sẽ dịch chuyển, như thu nhập, dân số, giá cả của hàng hóa thay thế, thị hiếu.. (có thể tăng hay giảm). Ví dụ khi thu nhập tăng, dân số tăng, sự tăng lên của giá cả hàng hóa thay thế...sẽ làm cho cầu tăng lên do đó đường cầu dịch chuyển sang phải và ngược lại. Do đó có thể nói bất kỳ sự thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng đến cầu (ngoài yếu tố giá) làm tăng lượng hàng hóa mà người mua muốn mua tại một mức giá nhất định cũng làm dịch chuyển cầu sang phải và ngược lại. (hình 2.4) Tóm lại: đường cầu cho thấy điều xảy ra với lượng cầu về một hàng hóa khi giá cả của nó thay đổi và tất cả các yếu tố khác quyết định đến lượng cầu không đổi. Khi một trong các yếu tố khác thay đổi thì đường cầu sẽ dịch chuyển Q Q
Hình 2. Một sự thay đổi của bất cứ yếu tố nào ảnh hưởng đến đường cung ngoài yếu tố giá sẽ làm thay đổi lượng cung ở mọi mức giá. Điều này được gọi là sự dịch chuyển của đường cung (ví dụ từ S 1 tới S 2 hay S 1 tới S 3 ). Hình 2. Nhận xét: khi có bất kỳ sự thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng đến cung (giá cả, giá các yếu tố đầu vào, công nghệ, kỳ vọng và số lượng) đều làm cho đường cung dịch chuyển sang phải hay trái. Q P S 1 S 2 P S 1 S 2 S 3
Hình 2. Trạng thái dư thừa và thiếu hụt của thị trường: Khi giá trên thị trường khác với giá cân bằng (PE) sẽ xuất hiện trạng thái dư thừa hoặc thiếu hụt. Nếu giá thị trường P 1 > PE xuất hiện dư thừa hàng hóa (QS 1 – QD 1 ), xuất hiện sức ép làm cho giá giảm. P S P 1 Pe D QD1 Qe QS1 Q Hình 2. Nếu giá thị trường P 2 < PE xuất hiện thiếu hụt hàng hóa (QD 2 – QS 2 ), xuất hiện sức ép làm cho giá tăng. Trong cả hai trường hợp trên giá cả có xu hướng quay trở về trạng thái cân bằng (PE). Trong cả hai trường hợp đó, lượng giao dịch trên thị trường đều nhỏ hơn lượng cân bằng (Qe) P
Thặng dư tiêu dùng = giá trị đối với người mua – số tiền người mua trả Hình 2. Thặng dư sản xuất (PS) là xem xét những lợi ích mà người bán nhận được từ sự tham gia vào một thị trường, là phần chênh lệch giữa giá bán thực tế và giá mà doanh nghiệp sẵn sàng bán. Như vậy giống như tiêu dùng thì thặng dư của nhà sản xuất có mối quan hệ mật thiết với đường cung, khi đó phần diện tích nằm dưới đường giá cả và trên đường cung phản ánh thặng dư của nhà sản xuất. Thặng dư của nhà sản xuất = số tiền người bán nhận được – chi phí của người bán. Khi đó tổng tặng dư = thặng dư tiêu dùng + thặng dư sản xuất = giá trị đối với người mua - chi phí của người bán.
P 1
Q Hình 2.
Q P 1
Ảnh hưởng của thuế: thuế đánh vào hàng hóa làm dịch chuyển đường cung lên trên dẫn tới giá cân bằng cao hơn và sản lượng cân bằng thấp hơn. Như vậy, sau khi đánh thuế một lượng là t đối với một đơn vị hàng hóa bán ra, giá thị trường tăng lên từ P 1 đến P 2. Sự chênh lệch (P 2 - P 1 ) người tiêu dùng phải chịu, còn nhà sản xuất phải chịu một phần bằng t - (P 2 - P 1 ). Chúng ta thấy rằng sự thay đổi của giá thị trường phụ thuộc vào độ dốc của đường cầu. Nói một cách khác, nó phụ thuộc vào độ co dãn của cầu. LÝ THUYẾT VỀ LỢI ÍCH NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ HÀNH VI DOANH NGHIỆP Quy luật lợi ích biên giảm dần Lợi ích và lợi ích cận biên