






Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
Mẫu đề cương triết học - mác lênin
Typology: Thesis
1 / 11
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
1. Lý do chọn đề tài Tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật – công nghệ của nền sản xuất hiện đại đã thúc đẩy kinh tế thế giới phat triển mạnh mẽ. Nhiều quốc gia đang tiến vào làn sóng văn minh mới với sự phát triển vượt bậc nhờ có chiến lược phù hợp, có những chính sách khôn ngoan, năng động. Trong đó, có nhiều quốc gia vốn cũng nghèo về tài nguyên nhưng nhờ biết phát huy yếu tố con người, đặt con người ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển nền kinh tế - xã hội nên đã vươn lên nhanh chóng trên tiến trình phát triển. Có thể nói, con người – người lao động luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và toàn xã hội nói chung. Hiểu rõ vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất và có một chiến lược để phát triển nguồn nhân lực là vấn đề rất cần thiết trên con đường đưa đất nước trở thành giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, nhóm sinh viên chọn vấn đề: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất và vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay làm đề tài tiểu luận của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất và liên hệ với vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau: - Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất. - Trình bày khái quát vị trí của nguồn nhân lực; phân tích tầm quan trọng của vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong sự phát triển xã hội và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. 3. Phương pháp thực hiện đề tài Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch… PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 1.1. Lực lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành 1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: con người là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển xã hội thông qua hoạt động sản xuất vật chất. Nhờ sản xuất ra cải vật chất, con người không chỉ duy trì sự sống mà còn sáng tạo nên toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần xã hội. Theo C. Mác, sản phẩm sản xuất vật chất là nền tảng để phát triển các thể chế, quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và tôn giáo. Do đó, lịch sử xã
thành lực lượng sản xuất của xã hội. Lênin đã viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Tóm lại, giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng. Quá trình hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh , kinh nghiệm của con người. Đồng thời, những phẩm chất của con người, những kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thuộc vào tư liệu sản xuất mà họ sử dụng.Không có nền công nghiệp cơ khí thì không có thể có người công nhân hiện đại và ngược lại, không có người công nhân hiện đại thì nền sản xuất cũng sẽ không thể trở nên hiện đại. 1.2. Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất Trong bất kì xã hội nào, người lao động cũng là ngườiđóng vai trò có yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Do đặc trưng sinh học – xã hội riêng vốn cócủa mình, con người – trong nền sản xuất xã hội có sức mạnh và kỹ năng lao động thần kinh – cơ bắp. Trong lao động, sức mạnh và kỹ năng đó được nhân lên nhiều lần. Với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, con người trở thành chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Người lao động trực tiếp sử dụng công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội của chính họ. Nếu không có người lao động sẽ không có sự tồn tại của công cụ lao động, đối tượng lao động… và quá trình lao động không thể tự tiến hành. Năng suất lao động của xã hội phụ thuộc vào trình độ phát triển lịch sử của lực lượng sản xuất, vào chất lượng của công cụ lao động và đặc biệt là phụ thuộc vào sức khỏe, thói quen, kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ lao động của con người. Nếu người lao động trong thời kỳ cổ đại không tạo ra được búa và cung tên bằng đá thì xã hội nguyên thủy không tồn tại và phát triển được, cũng như không có công nhân là lực lượng lao động chính của toàn xã hội thì chủ nghĩa tư bản không tồn tại và phát triển được. Người lao động là nguồn lực duy nhất có thể tác động vào các nguồn lực khác, khởi động chúng và kết hợp chúng lại để tạo ra sức mạnh cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Các nguồn lực khác khi khai thác sẽ cạn kiệt nhưng với người lao động, đặc biệt là trí tuệ của họ thì càng khai thác càng sản sinh và không ngừng phát triển. Bộ não của con người chứa đựng hàng tỉ tế bào thần kinh, do đó, con người càng lao động thì trí óc càng phát triển. Trí tuệ của con người là vô tận. Nó không phải là tự nhiên mà là sản phẩm của tự nhiên và của lao động. Trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài người, trí tuệ con người hình thành và phát triển song song với lao động và làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Trong quá trình phát triển của xã hội, lao động của con người đang dần trở thành lao động trí tuệ. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong khoa học – công nghệ ngày càng hiện đại đã làm cho con người trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất. Nhờ biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động, con người đã làm cho một vật "do tự nhiên cung cấp trở thành một khí quan của sự hoạt động của con người.Do đó mà “nối dài thêm các tầm thước tự nhiên của cơ thể đó”, làm tăng thêm sức mạnh các khí quan của con người lên gấp bội. Con người quyết định sự ra đời của công cụ, máy móc và quyết định sự vận hành, tính hữu ích của chúng. Một cái máy có thể bị huỷ bỏ, bị đưa vào viện bảo tàng hay được duy trì hoạt động và sử dụng như thế nào là tùy thuộc vào khả năng và mục đích của con người. Trong thời đầu của lịch sử nhân loại, lực lượng lao động sản xuất còn thấp kém, con người phụ thuộc chủ yếu vào những đối tượng do tự nhiên cung cấp. Sản xuất càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng rộng hơn, sâu hơn dẫn đến công cụ, phương tiện lao động
càng tiến bộ và các đối tượng lao động nhân tạo càng chiếm tỷ lệ cao hơn những đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên. Con người là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của lực sản xuất, là chủ thể sáng tạo. Người lao động nắm giữ yếu tố năng động, quyết định trong lực lượng sản xuất, vì chỉ có yếu tố con người mới có trí tuệ, chỉ có con người mới có thể tự phát triển và hoàn thiện bản thân. Người lao động không chỉ sinh con mà còn tái sản xuất ra sức lao động của chính họ và luôn nâng cao chất lượng của lao động bằng cach kế thừa các yếu tố xã hội và phát triển chúng. Điều này được thể hiện ở: mỗi thế hệ đi sau bao giờ cũng tiếp thu được những lực lượng sản xuất tích lũy qua các thế hệ đi trước. Trong đó không chỉ có những công cụ lao động, phương tiện vật chất mà còn là những kho tàng tri thức khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ đi trước. Bên cạnh đó, các thế hệ đi trước bao giờ cũng chuẩn bị đủ điều kiện cho thế hệ tiếp theo có những năng lực cần thiết để duy trì và phát triển sản xuất. Người lao động là chủ thể và là năng lực chủ đạo quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, không có người lao động thì không có quá trình sản xuất và do đó không có lực lượng sản xuất. Sản xuất vật chất là nền tảng, cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; cơ sở này do con người quyết định. Vì thế, chúng ta có thể suy rộng ra: con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể quyết định mọi quá trình vận động và phát triển của lịch sử. Các Mác và Ph. Ăng ghen đã nhấn mạnh vai trò quyết định của con người với quá trình phát triển thông qua hoạt động lao động như sau: “có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Tóm lại, người lao động có vị trí quan trọng trong lực lượng sản xuất và cả toàn bộ quá trình phát triển kinh tế-xã hội.Vì: Đầu tiên, các yếu tố như công cụ lao động, phương tiện, tư liệu lao động có giới hạn nhất định, chỉ có người lao động là có khả năng tái sinh đến vô hạn. Thứ hai, tự bản thân mình các yếu tố khác trong lực lượng sản xuất như công cụ, phương tiện lao động, đối tượng lao động không thể trở thành động lực phát triển; muốn trở thành động lực, chúng phải nhờ sức lực, trí tuệ của con người. Con người tạo ra mục tiêu, lựa chọn phương pháp khai thác, sử dụng đồng thời khôi phục lại các yếu tố khác trong lực lượng sản xuất. Thứ ba, người lao động với tất cả các phẩm chất tích cực (thể lực, trí lực, nhân cách) của mình, tự mình có thể trở thành động lực phát triển của quá trình sản xuất và toàn bộ xã hội. CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Vị trí của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội 2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực: Trong tiến trình phát triển của nền kinh tế - xã hội, sự vận động và thăng tiến không thể tách rời việc huy động và phát huy một cách tối ưu hệ thống tổng thể các nguồn lực. Khái niệm "nguồn lực", xét về phương diện khái quát nhất, được hiểu là toàn bộ những yếu tố vật chất và tinh thần, những quá trình hiện hữu hoặc tiềm tàng, có khả năng tạo nên năng lực, động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Hiện nay, những nguồn lực trọng yếu bao gồm: nguồn vốn tài chính, quỹ đất đai, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng - kỹ thuật, thành tựu
được nâng cao sẽ cho phép tối ưu hóa quy mô lao động, gia tăng hiệu quả hoạt động kinh tế
gian phát triển bằng cách tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, bài toán lớn nhất hiện nay của Việt Nam chính là bài toán về nguồn nhân lực: chúng ta cần nhiều hơn những con người giỏi nghề, sáng tạo, có tư duy độc lập và tinh thần trách nhiệm cao. Nhìn lại lịch sử dân tộc, ta thấy con người Việt Nam có rất nhiều phẩm chất quý báu. Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường, sự nhạy bén, linh hoạt, khả năng lao động cần cù sáng tạo... là những giá trị đã làm nên sức mạnh dân tộc suốt ngàn năm qua. Những truyền thống này là nền tảng cực kỳ quan trọng để chúng ta tiếp tục vươn lên trong thế giới hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng không thể phủ nhận những điểm yếu còn tồn tại, như thói quen làm việc tùy tiện, kỷ luật lỏng lẻo, tâm lý ngại đổi mới, và sự thiếu tinh thần hợp tác sâu sắc. Những hạn chế này nếu không được khắc phục sẽ cản trở rất lớn đến quá trình phát triển. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chú trọng xây dựng hệ thống đào tạo nguồn nhân lực. Các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề mọc lên ở khắp các tỉnh thành, đa dạng hóa về loại hình, phong phú về ngành nghề đào tạo. Nhiều chính sách hỗ trợ đào tạo vùng sâu vùng xa, hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn cũng được triển khai mạnh mẽ. Nhờ đó, trình độ học vấn và tay nghề của lực lượng lao động ngày càng được cải thiện. Tỉ lệ lao động qua đào tạo đã đạt mức trên 50%, đây là một tín hiệu tích cực cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Tuy vậy, con số ấy mới chỉ phản ánh một phần bức tranh. Chúng ta còn cần một bước tiến mạnh mẽ hơn về chất lượng: đào tạo con người không chỉ biết nghề, mà còn phải biết tư duy, biết sáng tạo, biết hợp tác, có khát vọng vươn lên và dám chịu trách nhiệm. Đầu tư vào con người phải là đầu tư dài hạn, bài bản, kiên trì và không thể nóng vội. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới có thể thật sự tận dụng được “lợi thế dân số vàng” hiện nay và biến nó thành động lực bền vững cho sự phát triển đất nước trong tương lai. 2.2.2. Đặc điểm: Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, cả về thể lực, trí lực lẫn kỹ năng nghề nghiệp. Trình độ chuyên môn kỹ thuật nhìn chung còn thấp, tốc độ cải thiện còn chậm so với yêu cầu phát triển. Trong cơ cấu lao động, số lượng lao động phổ thông chưa qua đào tạo vẫn còn lớn, trong khi lao động có tay nghề cao, chuyên gia kỹ thuật, chuyên gia quản lý ở tầm quốc tế lại thiếu hụt nghiêm trọng. Điều này dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc tiếp thu và vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, kinh doanh và quản lý xã hội. Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực giữa các ngành nghề, trình độ đào tạo và vùng miền còn thiếu cân đối, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù những năm gần đây, đầu tư cho giáo dục, đào tạo đã được chú trọng hơn, hệ thống cơ sở vật chất cũng có cải thiện, nhưng so với quy mô dân số, quy mô lực lượng lao động và yêu cầu hội nhập quốc tế, thì nhìn chung cơ sở vật chất và kinh phí cho đào tạo còn nghèo nàn, thiếu đồng bộ và lạc hậu. Thực tế cho thấy, số lượng lao động được đào tạo bài bản vẫn còn hạn chế; nhiều lao động được đào tạo nhưng lại phải làm việc trong môi trường công nghệ cũ kỹ, lạc hậu hoặc làm trái ngành nghề đã học. Cơ cấu lao động đào tạo giữa các ngành cũng chưa hợp lý: một số ngành thừa lao động trong khi nhiều ngành then chốt lại thiếu hụt. Đội ngũ nhân lực khoa học – công
Trong lĩnh vực kinh tế, cần nhanh chóng sắp xếp, tổ chức lại lực lượng lao động trên phạm vi cả nước sao cho hợp lý và hiệu quả. Cùng với đó, phải nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sản xuất , chấm dứt tình trạng tách rời giữa người lao động và tư liệu sản xuất – một hiện tượng làm giảm khả năng làm chủ và sáng tạo của họ. Điều quan trọng là phải tạo điều kiện để mọi người dân có thể thực sự làm chủ những tư liệu sản xuất của xã hội, từ đó phát huy hết khả năng, sáng kiến của người lao động. Đồng thời, cần đặc biệt chú trọng cải thiện điều kiện sống vật chất và tinh thần cho người lao động; đảm bảo việc phân phối công bằng, công khai và dân chủ để tạo ra sự công bằng xã hội và động lực làm việc cho toàn dân. Trong lĩnh vực chính trị, trước hết, cần nâng cao trình độ chính trị và ý thức trách nhiệm công dân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân, giúp họ nhận thức đúng vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Khi người lao động có trình độ nhận thức chính trị tốt, họ sẽ tích cực hơn trong việc tham gia vào công việc của Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị. Đồng thời, cần xây dựng một cơ chế quản lý xã hội và quản lý nhà nước hiệu quả , khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động của nhà nước và xã hội với tư cách là người làm chủ. Bên cạnh đó, giáo dục tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, bản lĩnh chính trị và tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng cần được đặc biệt chú trọng, nhất là trong thế hệ trẻ. Ngoài ra, phải kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, vi phạm kỷ cương, phá hoại trật tự xã hội, đồng thời bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa và các thành quả cách mạng. Có như vậy, người lao động mới có được nền tảng vững chắc để học tập, rèn luyện, cống hiến ngày càng nhiều hơn cho sự phát triển đất nước. Trong lĩnh vực xã hội, việc phát triển nguồn nhân lực còn đòi hỏi phải xây dựng những mối quan hệ xã hội mới trên cơ sở tinh thần tương trợ, sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng như trong đời sống thường ngày. Đồng thời, cần xây dựng quan hệ bình đẳng, thân thiện giữa các dân tộc, các vùng miền và giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Một trong những yêu cầu cấp bách là phải giảm dần khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng phát triển và vùng còn khó khăn , giải quyết triệt để các vấn đề như đói nghèo, việc làm… Bằng việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội này, người lao động sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để nâng cao tri thức, rèn luyện tay nghề, cống hiến tài năng và sức lực cho đất nước và xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đây là nền tảng cơ bản, lâu dài và bền vững để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trước hết, cần tuyên truyền để mỗi người dân nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với sự phát triển chung của đất nước , đặc biệt trong việc học tập, rèn luyện và phát triển bản thân. Sự phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ cần được tăng cường và củng cố. Về mặt nội dung, giáo dục cần được đổi mới theo hướng phản ánh đầy đủ những tri thức hiện đại nhất của thời đại, tiếp cận nhanh với thành tựu khoa học – công nghệ ; đồng thời phải giáo dục lòng yêu nước, ý chí tự cường và nhân cách lao động mới cho thế hệ trẻ. Về phương pháp, cần khơi dậy tính sáng tạo, chủ động, độc lập tư duy của người học; thúc đẩy việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn một cách linh hoạt và hiệu quả. Đặc biệt, phải xây dựng một đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao và tinh thần trách nhiệm với xã hội. Cùng với đó là việc đẩy mạnh phát triển khoa học – công nghệ , phát triển nhiều loại hình đào tạo, kết hợp giữa
trường học và cơ sở sản xuất; mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng của giáo dục chuyên nghiệp; thúc đẩy phong trào khởi nghiệp trong học sinh, sinh viên; và tái cấu trúc hệ thống đào tạo nhân lực theo hướng đa dạng và chất lượng cao. Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, việc phát triển nguồn nhân lực không chỉ là yêu cầu cấp bách mà còn là chiến lược lâu dài để đất nước có thể phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Sức mạnh con người chính là nền tảng, là động lực quan trọng nhất để biến khát vọng phát triển thành hiện thực. Chỉ khi biết phát huy đúng và đủ nguồn lực con người trên mọi phương diện – kinh tế, chính trị, xã hội và giáo dục – chúng ta mới có thể đưa đất nước vươn lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu trong thời đại mới. PHẦN KẾT LUẬN Tóm lại, xét dưới góc nhìn của chủ nghĩa duy vật lịch sử, người lao động giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong lực lượng sản xuất. Họ không chỉ là một yếu tố trong guồng máy sản xuất, mà luôn giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ hệ thống sản xuất xã hội. Mọi sự phát triển của lực lượng sản xuất, suy cho cùng, đều bắt nguồn từ con người – chính người lao động là chủ thể sáng tạo và vận hành mọi tư liệu sản xuất. Chính vì vậy, để lực lượng sản xuất có thể phát triển mạnh mẽ và bền vững, người lao động phải liên tục rèn luyện và hoàn thiện bản thân một cách toàn diện , cả về thể chất, trí tuệ lẫn phẩm chất đạo đức, nhân cách. Một nguồn nhân lực chất lượng không thể hình thành một cách tự phát, mà phải được xây dựng thông qua một chiến lược dài hạn, rõ ràng và toàn diện , trong đó có sự phối hợp đồng bộ từ nhà nước, xã hội, đến mỗi cá nhân và tổ chức. Mục tiêu cuối cùng là nâng cao năng lực làm việc và sức sáng tạo của người lao động , từ đó góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Để đạt được điều đó, việc phát triển nguồn nhân lực cần được tiến hành thông qua nhiều hướng khác nhau, từ đào tạo nghề, cập nhật kiến thức, bồi dưỡng kỹ năng đến rèn luyện đạo đức và tinh thần trách nhiệm. Trong số đó, giáo dục và đào tạo đóng vai trò then chốt , giữ vị trí hàng đầu bởi đây là con đường cơ bản và lâu dài nhất để nâng cao trình độ, tạo ra những thế hệ công dân mới có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, giáo dục – đào tạo chỉ thật sự phát huy hiệu quả nếu được thực hiện trên nền tảng tăng trưởng kinh tế đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội , đảm bảo rằng mọi người dân đều có cơ hội học tập, phát triển và cống hiến – không chỉ trong một giai đoạn nhất thời mà xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO