




























































































Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
banhste gui ace on thi vb2 cand
Typology: Essays (university)
1 / 132
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức cho toàn thể xã hội, vì vậy, quyền lực nhà nước là quyền lực đặc biệt, bao trùm đời sống xã hội, chi phối mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện quyền lực nhà nước, có một lớp người tách ra khỏi hoạt động sản xuất trực tiếp, tổ chức thành các cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan chuyên đảm nhiệm những công việc nhất định, hợp thành bộ máy nhà nước từ trung ương xuống địa phương. Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ Các tổ chức xã hội rất đa dạng, phức tạp, được hình thành và duy trì dựa trên những điều kiện xã hội khác nhau, có thể là quan hệ huyết thống, giới tính, độ tuổi, quan điểm chính trị... Trong khi đó, nhà nước lấy việc quản lý dân cư theo lãnh thổ làm điểm xuất phát. Người dân không phân biệt huyết thống, dân tộc, giới tính... cứ sống trên một địa vực nhất định thì chịu sự quản lý của một nhà nước nhất định và do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ trước nhà nước theo nơi mà họ cư trú. Nhà nước thực thi chủ quyền quốc gia Nhà nước có quyền lực bao trùm phạm vi lãnh thổ quốc gia, đứng trên mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, vì vậy nhà nước là tổ chức duy nhất có đủ tư cách và khả năng đại diện chính thức và hợp pháp của quốc gia, thay mặt quốc gia dân tộc thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý, nó thể hiện quyền quyết định tối cao và độc lập, tự quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào bất kì cá nhân, tổ chức nào trong nước cũng như các nhà nước khác, các tổ chức quốc tế. Trong các xã hội không có dân chủ, chủ quyền quốc gia thuộc về nhà nước. Trong điều kiện của xã hội dân chủ, quyền lực tối cao trong xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân ủy quyền cho nhà nước thay mặt nhân dân tổ chức thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Nhà nước ban hành pháp luật, dùng pháp luật làm công cụ quản lý xã hội Pháp luật là quy tắc ứng xử của con người trong đời sống cộng đồng. Nhà nước là tổ chức đại diện cho xã hội, thay mặt xã hội ban hành pháp luật, cung ứng cho xã hội một loại quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật, đồng thời, với tư cách là người có sứ mệnh tổ chức và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, nhà nước phải sử dụng pháp luật, dựa vào pháp luật, là phương tiện đặc biệt quan trọng để tổ chức và quản lý xã hội. Mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế, phát hành tiền Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc phải nộp cho nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước là một bộ máy được tách ra khỏi lao động sản xuất trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản lý xã hội, do vậy, nó phải được nuôi dưỡng từ nguồn của cải do dân cư đóng góp. Thiếu thuế bộ máy nhà nước không thể tồn tại được. Bên cạnh đó, thuế còn là nguồn của cải quan trọng phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống. Chỉ nhà nước mới có quyền quy định và thực hiện việc thu thuế vì nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách đại diện chính thức cho toàn xã hội. Nhà nước phát hành tiền làm phương tiện trao đổi trong sản xuất, phân phối, tiêu dùng
của cải trong đời sống.
2. Bản chất nhà nước a. Khái niệm bản chất nhà nước Nói tới bản chất nhà nước là nói tới tổng hợp những mặt, những mối liên hệ, những thuộc tính tất nhiên, tương đối ổn định bên ương của nhà nước, quy định sự tồn tại, phát triển của nhà nước. Nhà nước là một hiện tượng xã hội, nó sinh ra từ hai nhu cầu cơ bản là nhu cầu tổ chức quản lý xã hội và nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị về kinh tế, nên khi tìm hiểu bản chất nhà nước, cần tập trung vào hai phương diện: phương diện xã hội và phương diện giai cấp. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị, lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội và quản lý, duy trì trật tự xã hội, vì sự tồn tại và phát triển của cả xã hội. Do vậy, việc xác định, đánh giá bản chất nhà nước phải xuất phát từ việc xem xét cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của nhà nước. Mỗi nhà nước đều được xây dựng và tồn tại trên cơ sở kinh tế nhất dinh. Cơ sở kinh tế của nhà nước là những quan hệ sản xuất chủ yếu mà nhà nước dựa vào đó để tồn tại và phát triển, đồng thời nhà nước cũng ra sức củng cố, bảo vệ và tạo điều kiện cho cơ sở kinh tế đó phát triển. Nhà nước là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng nên nhà nước với kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và nằm chung trong mối quan hệ giữa thượng tầng với hạ tầng. Do vậy, cơ sở kinh tế quyết định sự ra đời, bản chất, chức năng và sự phát triển của nhà nước, cơ sở kinh tế thay đổi thì nhà nước thay đổi. Ngược lại, các chính sách, các quy định pháp luật của nhà nước xét đến cùng đều được xây dựng và thực hiện xuất phát từ chính sách kinh tế, từ điều kiện kinh tế của đất nước. Có thể nói, sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước xét đến cùng do kinh tế quyết định, song nhà nước cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của kinh tế. Không chỉ phụ thuộc vào cơ sở kinh tế, bản chất nhà nước còn bị chi phối bởi cơ sở xã hội. Nhà nước là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nhà nước sinh ra từ xã hội, là hình thức tổ chức của xã hội có giai cấp, nên nhà nước luôn phụ thuộc vào xã hội. Cơ sở xã hội của nhà nước là các lực lượng tồn tại trong xã hội, mà quan trọng nhất là lực lượng trực tiếp cầm quyền cùng mối quan hệ của họ đối với các lực lượng khác trong xã hội. về nguyên tắc lực lượng (giai cấp) nào nắm giữ quyền lực kinh tế thì cũng là lực lượng (giai cấp) nắm giữ quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Do vậy, cơ sở xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới bản chất nhà nước, cơ sở xã hội thay đổi thì bản chất nhà nước cũng thay đổi. Nhà nước sinh ra từ xã hội, có nhiệm vụ thay mặt xã hội để quản lý xã hội, giải quyết các vấn đề quan trọng nảy sinh trong xã hội, nghĩa là thực hiện các chức năng xã hội, do vậy, nhà nước có sự tác động mạnh mẽ tới sự phát triển mọi mặt của xã hội. Để làm được việc đó, nhà nước tạo ra cho mình một vị thế tựa hồ như “đứng trên xã hội”, đại diện chính thức cho xã hội, nắm giữ và thực hiện chủ quyền quốc gia, ban hành pháp luật, thực hiện việc quản lý xã hội để giữ cho xã hội “trong vòng trật tự”. Do vậy, hiện nay trong xã hội có giai cấp cứ nhà nước này mất đi thì phải có một nhà nước khác thay thế để quản lý, duy trì trật tự xã hội.
Nhà nước chủ nô, nhất là các nhà nước chủ nô phương Đông, do điều kiện kinh tế
phức tạp, đòi hỏi nhà nước phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước phải là một tổ chức có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, của dân chủ và văn minh thì tính xã hội của nhà nước ngày càng mở rộng; sự giới hạn quyền lực nhà nước ngày càng được xác định rõ ràng hơn; tính minh bạch, công khai và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngày càng được thực hiện có hiệu quả hơn và các quá trình xã hội hóa một sổ hoạt động nhà nước sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển, trách nhiệm của nhà nước ngày càng nặng nề hơn, nhiều vấn đề như lao động, việc làm, phòng chống tội phạm và bảo vệ môi trường... không chỉ là vấn đề mang tính quốc gia mà còn có tính quốc tế và luôn đòi hỏi nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết. Điều này dẫn đến tính xã hội của nhà nước không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà nó được mở rộng ra đối với toàn nhân loại, các nhà nước phải tuỳ thuộc vào nhau, liên kết với nhau nhiều hơn trong việc giải quyết các vấn đề của mỗi nước và của toàn nhân loại.
- Tính giai cấp của nhà nước Ở phương diện này nhà nước là công cụ bảo vệ lợi ích cho các giai tầng trong xã hội, mà chủ yếu là của giai cấp thống trị, thực hiện các mục đích mà giai cấp thống trị đề ra. Nhà nước bị giai cấp chiếm địa vị chủ yếu trong hệ thống sản xuất xã hội nắm giữ và lợi dụng. Theo các nhà kinh điển thì, nhà nước theo nghĩa chung nhất chi là sự thể hiện (dưới hình thức tập trung nhất) những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất. Những điều kiện kinh tế bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội có giai cấp và những mâu thuẫn không thể điều hòa được do chúng tạo ra giữa các giai cấp đối kháng đã sinh ra sự cần thiết khách quan buộc giai cấp thống trị trong những quan hệ kinh tế đó phải tập trung sức mạnh của mình vào nhà nước. Nói cách khác, giai cấp thống trị về kinh tế của xã hội trong điều kiện tồn tại mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đòi hỏi phải trở thành giai cấp thống trị về chính trị và thực hiện sự thống trị về chính trị thông qua nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác. Sự thống trị về chính trị của giai cấp còn gọi là chuyên chính giai cấp. Giai cấp có kinh tế sử dụng nhà nước để chống lại các giai cấp khác, bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình. Tuy nhiên, để thực hiện quyền lực chính trị của mình, trong những điều kiện nhất định, bên cạnh nhà nước, giai cấp thống trị còn sử dụng các tổ chức chính trị - xã hội khác, song nhà nước là công cụ quan trọng nhất, cần lưu ý là, để thực hiện sự thống trị giai cấp một cách có hiệu quả, giai cấp thống trị còn thực hiện sự tác động về tư tưởng đối với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Thông qua nhà nước, giai cấp thống trị xây dựng hệ tư tưởng của mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, bắt các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội phải nghe theo, phải làm theo điều mà giai cấp thống trị mong muốn. Có thể nói tính giai cấp là thuộc tính bản chất của bất kì một nhà nước nào, song mức độ thể hiện của nó trong mỗi kiểu nhà nước và trong mỗi nhà nước cụ thể lại rất khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và tương quan lực lượng của các giai tầng trong xã hội. Khi một giai cấp có đủ điều kiện và sức mạnh để trở thành giai cấp
Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới trong bản chất của nhà nước, nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn là nhà nước theo đúng nghĩa nữa, mà nó trở thành “nửa nhà nước”. Khác với các giai cấp trước kia, giai cấp vô sản sau khi trở thành giai cấp thống trị, nắm trong tay quyền lực nhà nước, không có mục đích dùng nhà nước để duy trì mãi địa vị thống trị của mình, mà là để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xoá bỏ mọi sự áp bức bóc lột và mọi sự thống trị giai cấp. Vì vậy, trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực, giai cấp vô sản thực hiện sự liên minh với mọi lực lượng lao động của xã hội để thiết lập những nguyên tắc và cơ chế vận hành quyền lực nhà nước dựa trên cơ sở quyền lực nhân dân, không ngừng mở rộng dân chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Như vậy, nhà nước xét dưới giác độ giai cấp thể hiện ở chỗ nó nằm trong tay giai cấp thống trị và chủ yếu phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị. Với cách tiếp cận đó cho thấy nhà nước là công cụ thực hiện những nhiệm vụ kinh tế, chính trị của giai cấp thống trị, duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị và tư tưởng của giai cấp thống trị đối với các giai cấp khác. Tóm lại, tính xã hội và tính giai cấp là hai mặt cơ bản thống nhất thể hiện bản chất của bất kì nhà nước nào, chúng luôn gắn bó chặt chẽ, đan xen nhau. Dù trong xã hội nào, nhà nước cũng phải chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội và ở những mức độ khác nhau bảo vệ lợi ích của giai cấp (lực lượng) cầm quyền. Tuy nhiên, mức độ và sự thể hiện (công khai hay kín đáo, tế nhị) tính giai cấp, tính xã hội của mỗi nhà nước khác nhau thì khác nhau, trong mỗi giai đoạn khác nhau có thể cũng khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện và nhận thức của lực lượng cầm quyền. Lịch sử phát triển của nhà nước cho thấy từ chỗ công khai thể hiện tính giai cấp tới chỗ kín đáo hơn đối với vấn đề giai cấp, tăng dần vai trò xã hội, trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội.nViệc giải quyết các vấn đề xã hội và giai cấp không chỉ trong nội bộ một quốc gia mà ngày càng mang tính chất quốc tế. Đây cũng là sự phát triển của văn minh nhân loại, của tri thức con người từ mông muội, dã man đến văn minh, nhân đạo. b. Bản chất nhà nước Việt Nam hiện nay Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhân dân Việt Nam đã đứng lên làm Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Do miền Nam chưa được hoàn toàn giải phóng nên nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam để thống nhất đất nước đồng thời chuyển dần sang thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Nhà nước Việt Nam đổi tên thành Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những mô hình đã được tìm tòi, sáng tạo dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang đầy đủ những yếu tố của một nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung, vừa mang những đặc trưng riêng gắn liền với điều kiện đất nước và con người Việt Nam. Cơ sở kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là quan
hệ sản xuất được xây dựng dựa trên cơ sở chế độ sở hữu nhiều hình thức, thực hiện chính sách xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Cơ sở xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhân dân Việt Nam mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, được tập hợp thống nhất dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Với cơ sở kinh tế và xã hội như trên, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay được biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở tiếp tục kiên định các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước, về hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật, bảo đàm nguyên tắc tập trung - dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước... Nhà nước pháp quyền Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo tinh thần đề cao chủ quyền nhân dân, những vấn đề quan trọng nhất của đất nước do nhân dân quyết định. Nhà nước coi con người là giá trị cao nhất trong xã hội, luôn phấn đấu vì hạnh phúc của con người theo tinh thần “tất cả cho con người, tất cả vì con người”; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; thừa nhận vị trí tối thượng của hiến pháp và luật trong đời sống xã hội. Nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, thực hiện quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật; thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội theo hiến pháp và pháp luật; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, độc lập, tự do, hạnh phúc vừa là mục tiêu vừa là động lực để Nhà nước và xã hội phấn đấu vươn tới; Nhà nước bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế... Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Do vậy, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
trị, tư tưởng... Bộ máy nhà nước Việt Nam luôn được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ, tôn trọng quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc, từng bước tiến tới nền dân chủ thực sự theo tinh thần: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng. Chủ trương của Việt Nam hiện nay là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chù nghĩa, bảo đảm tất cà quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chù trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân_._ Đẩy mạnh thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân. Cùng với việc phát huy dân chủ phải tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỉ luật, kỉ cương và đề cao đạo đức xã hội. Thứ tư, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Điều 5 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh song trên đất nước Việt Nam”. Do vậy, Nhà nước Việt Nam là tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân, biểu hiện tập trung khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam bình đẳng về mọi phương diện, các dân tộc đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện, tạo điều kiện để các dân tộc thiểu sổ phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. Trong giai đoạn hiện nay cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng. Thứ năm , nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam, là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo. Hiến pháp Việt Nam hiện hành đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Không chỉ tổ chức và xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn thực hiện sự chuyên chính với kẻ thù của nhân dân, phòng chổng giặc ngoại xâm, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
đều bị Nhà nước Việt Nam nghiêm trị theo pháp luật. Nhà nước Việt Nam bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ đối với nhân dân đồng thời luôn chuyên chính với kẻ thù của nhân dân, bởi chỉ có như vậy mới bảo vệ được tự do và dân chủ của nhân dân. Thứ sáu, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nước Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp lại phải trải qua muôn vàn khó khăn, gian khổ nên cho đến nay mặc dù đã xây dựng xã hội chủ nghĩa được khá nhiều năm, song Việt Nam vẫn đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
mặt của đời sống xã hội, cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, xác định rõ những việc được làm, không được làm, phải làm cho các cá nhân, tổ chức. Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật được từng bước hình thành và hoàn thiện. Khi thực hiện các chức năng nhà nước ở từng lĩnh vực khác nhau, cần thiết phải có quy định chung, thống nhất để đảm bảo cho các mặt hoạt động của nhà nước được đồng bộ, nhịp nhàng và hiệu quả trên cả nước. Pháp luật sau khi được ban hành nó thường không thể tự đi vào đời sống. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân, tổ chức trong xã hội không tự thực hiện được các quy định trong hệ thống pháp luật. Vì vậy, nhà nước phải tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm tổ chức cho các chủ thể trong xã hội thực hiện các quy định trong pháp luật, chẳng hạn, nhà nước tiến hành phổ biến pháp luật cho người dân, giải thích, tuyên truyền, động viên, khuyến khích tính tích cực của họ, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật... Có như vậy, những mong muốn, yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước mới có thể được thực hiện một cách có hiệu quả. Trong quá trình thực hiện pháp luật, vì những lý do khác nhau, việc vi phạm pháp luật lắ khó tránh khỏi. Khi đó, nhà nước phải thực hiện các hoạt động nhằm xử lý người vi phạm, giáo dục cải tạo họ cũng như răn đe phòng ngừa chung nhằm bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp luật, bào đảm các yêu cầu của nhà nước được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Để thực hiện chức năng nhà nước, có hai phương pháp cơ bản là giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế. Giáo dục, thuyết phục là việc nhà nước sử dụng các biện pháp tác động lên ý thức con người, làm cho họ biết, hiểu, tự giác, chủ động, tích cực thực hiện các yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước. Cưỡng chế là việc nhà nước bắt buộc các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước. Các biện pháp cưỡng chế nhà nước rất đa dạng, trong đó người bị cưỡng chế luôn phải gánh chịu sự bất lợi nào đó, có thể là bất lợi về thân thể, về tài sản, thậm chí cả tính mạng của họ... b. Phân loại chức năng nhà nước Trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều cách phân loại chức năng của nhà nước: * Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, chức năng của nhà nước được phân thành các chức năng đối nội và các chức năng đối ngoại:
phát triển các ngành nghề thủ công, phát triển thương nghiệp bằng việc vận chuyển hàng hóa giao thương giữa các vùng lãnh thổ quốc gia và các nước lân cận. Với nhà nước tư sản, hoạt động tổ chức quản lý kinh tế trở nên rất đa dạng, phức tạp, được nhà nước rất coi trọng. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản dùng chính sách thuế khóa tác động đến các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trờ lại đây, nhà nước tư sản đã can thiệp sâu vào quá trình kinh tế, đưa ra chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô nhằm tránh cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bị rơi vào các cuộc khủng hoảng. Nhà nước tư sản đã sử dụng các đòn bẩy kinh tế, các chính sách thuế khóa để điều tiết nền kinh tế. Có thể nói, chức năng kinh tế của nhà nước tư sản thực hiện ngày càng phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội hiện đại, tạo ra nguồn của cải vật chất khổng lồ cho nhân loại. Với nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt. Theo V. I. Lênin, sự thành công của chủ nghĩa xã hội được quyết định bởi năng suất lao động, của cải vật chất ngày một nhiều, đời sống vật chất của người dân ngày một nâng cao. Để thực hiện chức năng này, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải củng cố, bảo vệ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phải tiến hành việc quốc hữu hóa xí nghiệp, đất đai của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, quy định những tư liệu sản xuất quan trọng đều thuộc sở hữu toàn dân và thực hiện các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với mọi hành vi xâm hại tới chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt nhà nước xã hội chủ nghĩa thay mặt cho nhân dân quản lý những tư liệu sản xuất quan trọng nhất, trực tiếp tiến hành việc tổ chức quản lý sản xuất, phân công lao động và phân phối sản phẩm xã hội nhằm phát triển một nền kinh tế cân đổi và toàn diện, đảm bảo ngày càng nâng cao mức sống của người dân. Tương tự, đối với chức năng xã hội của nhà nước, phạm vi hoạt động của nhà nước cũng ngày càng mở rộng hơn, nhà nước tiến hành ngày càng nhiều hơn những hoạt động vì sự phát triển chung của cộng đồng. Chẳng hạn, nhà nước chủ nô mới chỉ thực hiện một số hoạt động nhằm ổn định xã hội như tiến hành các hoạt động văn hóa, thể thao, thực hiện các nghi lễ tôn giáo... Nhà nước phong kiến thực hiện một số hoạt động nhân đạo như cứu tế, cấp phát lương thực hỗ trợ dân lúc đói kém, khuyến khích giáo dục, coi trọng khoa cử nhằm lựa chọn người hiền tài phục vụ đất nước. Đối với nhà nước tư sản, chức năng xã hội rất phát triển do bản chất tiến bộ của nó. Ngay từ khi mới ra đời, tính xã hội của nhà nước tư sản đã rộng rãi hơn rất nhiều so với nhà nước phong kiến. Chính điều này đã quyết định đến chức năng xã hội của nhà nước tư sản. Trước hết nhà nước tư sản có nhiều hoạt động nhằm đảm bảo cho sự phát triển ổn định, an toàn của xã hội. Nhà nước đầu tư lớn cho các công trình phúc lợi chung, nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, văn hóa giáo dục và y tế. Hệ thống giáo dục với nhiều cấp học, bậc học rất phù hợp và phát triển. Hệ thống y tế với các loại hình công, tư và đội ngũ y bác sĩ trình độ cao đã làm khá tốt việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; đặc biệt nhà nước ứng phó rất kịp thời khi có dịch bệnh xảy ra. Việc phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, nhà nước tư sản cũng thực hiện rất hiệu quả, giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. Nhà nước tư sản tiến hành nhiều hoạt động quan tâm đến đời sống của người dân; thực hiện chính sách an sinh xã hội như trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho người thu nhập thấp, có các chính sách về bảo hiểm xã hội phù
hợp, chăm lo đời sống của những người già cô đơn, người tàn tật trong xã hội... Đặc biệt, chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa rất phát triển. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đại diện cho toàn thể người lao động nên nhà nước có nhiệm vụ đảm bảo một xã hội ổn định theo hướng có lợi cho người lao động, quan tâm chăm lo đến đời sống mọi mặt của người dân. Chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được tiến hành với nhiều nội dung phong phú. Về văn hóa, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng và thực hiện nền văn hóa mới, con người mới, nâng cao dân trí. Về giáo dục, nhà nước từ chỗ xoá mù chữ đến thực hiện chính sách phổ cập giáo dục, miễn giảm học phí ở nhiều cấp học cho nhân dân. Hệ thống y tế rất phát triển, nhiều mạng lưới y tế được mở rộng với nhiều cơ sở khám chữa bệnh hiện đại đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Nhà nước có chính sách tôn giáo, dân tộc hợp lý, ưu tiên phát triển ở vùng sâu, vùng xa, nơi sinh sống của đồng bào thiểu số để đảm bảo sự phát triển hài hòa của mọi vùng miền trong cả nước, về an sinh xã hội, nhà nước rất quan tâm đến việc làm, đến trợ cấp thất nghiệp và bảo hiểm xã hội; thực hiện việc miễn giảm đóng góp bảo hiểm xã hội cho những đối tượng đặc biệt... Chức năng xã hội là chức năng cơ bản, thể hiện rõ nét bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện tốt chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa đã mang lại những kết quả rất đáng khích lệ và dự báo trong tương lai, các nước xã hội chủ nghĩa sẽ có điều kiện để thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng này. Chính vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa được coi là nhà nước phục vụ nhân dân.
- Về phương thức thực hiện chức năng của nhà nước Các nhà nước đều thực hiện chức năng của mình thông qua các phương thức là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, các nhà nước thường kết hợp giữa giáo dục thuyết phục với cưỡng chế. Tuy nhiên, hoạt động xây dựng pháp luật trong các nhà nước chủ nô, phong kiến còn nhiều hạn chế, pháp luật chủ yếu thể hiện ý chí của vua chúa và thường rất hà khắc. Nhà vua tự coi mình đứng trên, pháp luật, việc thực hiện pháp luật của bộ máy quan lại nhiều khi còn tùy tiện. Các nhà nước này thường coi trọng biện pháp cưỡng chế trong việc thực hiện chức năng của nhà nước, nhiều trường hợp các biện pháp cưỡng chế rất dã man tàn khốc. Chẳng hạn, trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người nô lệ bị bóc lột rất nặng nề, họ bị coi là tài sản, là đồ vật thuộc sở hữu của chủ nô. Mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ vô cùng gay gắt, nhiều cuộc đấu tranh của nô lệ đã xảy ra. Nhà nước chủ nô đã ban hành pháp luật quy định tình trạng vô quyền của nô lệ, đồng thời sử dụng những biện pháp cưỡng chế rất dã man tàn bạo để trấn áp sự phản kháng của nô lệ. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nô lệ nổ ra. Trước tình thế đó, nhà nước chủ nô đã sử dụng quân đội thẳng tay đàn áp những người nô lệ, nhấn chìm các cuộc đấu tranh của nô lệ trong bể máu. Nhà nước phong kiến ra đời thay thế nhà nước chủ nô, quan hệ giữa địa chủ phong kiến và nông nô được cải thiện một bước. Tuy nhiên, đời sống của người nông dân trong xã hội phong kiến vẫn rất cùng cực, họ phải chịu nhiều tầng áp bức bóc lột, sưu cao thuế nặng và rất nhiều phu phen, tạp dịch. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra. Nhà nước phong kiến cũng sử dụng bạo lực quân sự để thẳng tay đàn áp các cuộc