Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

Liên hệ mở rộng triết học, Thesis of Periodontology

Các phần liên hệ sử dụng trong tự luận

Typology: Thesis

2024/2025

Uploaded on 04/02/2025

minh-quan-19
minh-quan-19 🇻🇳

2 documents

1 / 21

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
PHẦN VẬN DỤNG TRANG
Vai trò của triết học Mác - Lênin trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam hiện nay………………………………………………
Vai trò của triết học Mác Lê nin đối với mỗi cá nhân………………………….
Ví dụ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn……………………..
Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong cuộc sống……………….
Liên hệ bản thân mối quan hệ giữa vật chất và ý thức………………………….
Liên hệ thực tiễn hai ng.lý cơ bản PDVBC……………………………………..
Vận dụng nguyên lý phát triển………………………………………………….
Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập …………………………….
Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào công cuộc thời kỳ đổi mới của
Đảng ở Việt Nam ……………………………………………………………….
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập: nguồn gốc của sự phát
triển……………………………………………………………………………..
Quy luật lượng chất: cách thức, hình thức của sự phát triển……………………
Quy luật phủ định của phủ định: khuynh hướng của sự phát triển……………..
Liên hệ thực tiễn quy luật phủ định của phủ định………………………………
Liên hệ vai trò của thực tiễn ……………………………………………………
Đảng và Nhà nước ta vận dụng vai trò thực tiễn……………………………….
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng ý nghĩa phương pháp luận về nguyên lý vai trò
sản xuất vật chất thế nào trong quá trình phát triển đất nước……………….
Quan hệ biện chứng LLSX và QHSX Đảng và nhà nước ta đã vận dụng ý nghĩa
của mối quan hệ biện chứng LLSX và QHSX trong quá trình phát triển đất nước
như thế nào……………………………………………………………………...
Liên hệ với thực tiễn quá trình phát triển quá độ ở Việt Nam hiện nay…………
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong việc
xây dựng đời sống tinh thần ở Việt Nam hiện nay…………………………
Liên hệ cuộc chiến chống ại dịch Covid-19 ở nước ta hiện nay………………..
Bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin……………….
Liên hệ với việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa……………………
Vận dụng quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại vào hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên …
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức
của học sinh, sinh viên ………………………………………………………….
Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng-chất vào tìm hiểu về
cách thức vận động của quá trình tích lũy kiến thức của học sinh từ đó đưa ra giải
pháp nhằm khắc phục những điểm thiếu sót và hạn chế của hiện tượng ….
Ví dụ về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong triết học ……………….
2
3
3
4
5
6
6
6
7
7
8
8
9
9
10
11
12
14
14
15
16
18
19
19
20
21
1
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15

Partial preview of the text

Download Liên hệ mở rộng triết học and more Thesis Periodontology in PDF only on Docsity!

PHẦN VẬN DỤNG TRANG

Vai trò của triết học Mác - Lênin trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay……………………………………………… Vai trò của triết học Mác Lê nin đối với mỗi cá nhân…………………………. Ví dụ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn…………………….. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong cuộc sống………………. Liên hệ bản thân mối quan hệ giữa vật chất và ý thức…………………………. Liên hệ thực tiễn hai ng.lý cơ bản PDVBC…………………………………….. Vận dụng nguyên lý phát triển…………………………………………………. Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập ……………………………. Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào công cuộc thời kỳ đổi mới của Đảng ở Việt Nam ………………………………………………………………. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập: nguồn gốc của sự phát triển…………………………………………………………………………….. Quy luật lượng chất: cách thức, hình thức của sự phát triển…………………… Quy luật phủ định của phủ định: khuynh hướng của sự phát triển…………….. Liên hệ thực tiễn quy luật phủ định của phủ định……………………………… Liên hệ vai trò của thực tiễn …………………………………………………… Đảng và Nhà nước ta vận dụng vai trò thực tiễn………………………………. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng ý nghĩa phương pháp luận về nguyên lý vai trò sản xuất vật chất thế nào trong quá trình phát triển đất nước………………. Quan hệ biện chứng LLSX và QHSX Đảng và nhà nước ta đã vận dụng ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng LLSX và QHSX trong quá trình phát triển đất nước như thế nào……………………………………………………………………... Liên hệ với thực tiễn quá trình phát triển quá độ ở Việt Nam hiện nay………… Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong việc xây dựng đời sống tinh thần ở Việt Nam hiện nay………………………… Liên hệ cuộc chiến chống ại dịch Covid-19 ở nước ta hiện nay……………….. Bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin………………. Liên hệ với việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa…………………… Vận dụng quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại vào hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên … Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên …………………………………………………………. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng-chất vào tìm hiểu về cách thức vận động của quá trình tích lũy kiến thức của học sinh từ đó đưa ra giải pháp nhằm khắc phục những điểm thiếu sót và hạn chế của hiện tượng …. Ví dụ về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong triết học ……………….

Chủ đề: Vấn đề cơ bản của triết học Câu 1: Vai trò của triết học Mác - Lênin trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay: Thứ nhất, Triết học đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan, hệ thống giá trị văn hóa nhân văn cho sinh viên, nó như “la bàn” giúp họ định hướng tính tích cực xã hội và chính trị của mình vào mục đích xây dựng, sáng tạo: Sinh viên ở các thời đại khác nhau và ở các nước khác nhau đều thường đi tiên phong trong các phong trào và các tiến trình chính trị Thứ hai, thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người, là thấu kính mà qua đó con người có thể xác định mục đíc, ý nghĩa cuộc sống và ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó: Triết học đem lại cho sinh viên tri thức về các mối quan hệ xã hội, về bản chất, chức năng của nhà nước và của pháp luật, về mục đích tồn tại của con người, về cái thiện và cái ác, về mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm. => Vì vậy, triết học có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên. Giáo dục triết học Mác - Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời, về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin giúp sinh viên hiểu được mục đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; trong đó, mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội mà "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người". Giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản cho các thế hệ sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện lý tưởng.Giúp sinh viên có tinh thần đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống thiếu trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đà vào cuộc sống hưởng thụ, thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, vô cảm với lợi ích của đồng loại, của dân tộc. Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm:

  • Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác;
  • Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.

của con người sẽ khó hoạt động. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực của cuộc sống một cách cụ thể nhất. Ví dụ 3: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì mọi hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn. Ví dụ 4: Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh về công nghệ thông tin còn yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng dạy còn thiếu. Nếu như nền cơ sở vật chất được đáp ứng trong giảng dạy thì trình độ công nghệ thông tin của học sinh nhất định sẽ tốt hơn và phát triển rất nhiều. b/ Ý thức tác động trở lại vật chất Ví dụ 1: Hiểu được tính chất vật lý của thép chế tạo máy như:

  • mật độ của thép: 1,85 kg/vm
  • Hệ số co giãn nhiệt: 12,
  • Độ dẫn nhiệt: 42,6 w
  • Nóng chát ở môi trường nhiệt độ trên 1000 độ C. Do đó, thay vì thực hiện các phương pháp thủ công như trước kia thì con người đã đầu tư, sản xuất ra được những nhà máu gang thép để sản xuất ra các máy móc, sản phẩm với đủ mọi loại kích cỡ. Ví dụ 2: Khi ở nhiệt đố 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống nước đá đã cung cấp một nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang trạng thái rắn (nước đá). Ví dụ 3: Nhà máy thủy điện Sông Tranh II huyện Bắc Trà My – Quảng Nam là một ví dụ điển hình, từ việc không khảo sát thực tế khách quan hay đúng hơn là nhận thức về tính chất chưa đầy đủ vì vậy khi hoạt động chưa được bao lâu đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho người dân địa phương. Ví dụ 4: Hiểu được tính chất hóa học của hidrocarbon, cấu trúc phân tử của chúng để tạo nên các vật chất Polime, từ đó con người tạo ra các nhà máy sản xuất các loại nhựa tổng hợp, tơ sợi nhân tạo...đủ các kích cỡ, chúng loại theo dây chuyền một cách nhanh chóng chứ không phải bằng phương pháp thủ công như xa xưa. · 2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong cuộc sống: Thứ nhất, Trong chính trị: Vận dụng của ĐCS Việt Nam vào sự nghiệp đổi mới – Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh nghiệm những thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học kinh nghiệm quan trọng đó là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Cụ thể: ● Trước đổi mới: Kinh tế(vật chất): Cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu công nghiệp hàng hóa cho xuất khẩu. Chính trị (ý thức): Chúng ta chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực của sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách toàn diện về đổi mới. Nhất là về kinh tế, chúng ta chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh

tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế và những sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông. ● Sau đổi mới: Về chính trị, Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình, lấy ý kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn, trong đó: phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, ta đã đánh giá tình hình chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới: công cuộc đổi mới bước đầu đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, tình hình chính trị của đất nước ổn định. Về Kinh tế: Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, đời sống vật chất tinh thần của một bộ phân nhân dân có phần được cải thiện. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy. Thứ hai, Trong việc xây dựng nền kinh tế mới Hiện nay, người dân hiểu và tiếp thu những nghiên cứu, đúc kết từ phân tích của nhà khoa học, nhà triết học vào thực tiễn cuộc sống. Sau đó áp dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nó là cơ sở để con người phản ứng với thực tại vật chất thông qua những nhận thức cụ thể. Có những thứ tồn tại trong thực tế cuộc sống cần phải có sự cải tạo của con người mới có ích cho nhiều việc.Từ sự hiện diện của vật chất trên thế giới này, con người nhận thức đúng, thậm chí thay đổi và tác động trở lại một cách sáng tạo. Làm cho vật chất đó sinh ra các vật thể, đồ vật, sinh vật, thực vật, …. đa dạng hơn hoặc nếu chủ thể coi đó là vật có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm sự phát triển của nó và loại bỏ nó khỏi thế giới loài người.Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân và công cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. · Liên hệ bản thân mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta có thể liên hệ bản thân để rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu đối với quá trình học tập và làm việc. Trước hết, trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải coi trọng thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm cho căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Bên cạnh đó, cần phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Như vậy, để đạt được thành công trong mọi lĩnh vực, con người cần trang bị các tri thức cần thiết và xác định đúng đắn mục tiêu, phương hướng hoạt động và tổ chức thực hiện. Cùng với nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình để đạt được mục tiêu đề ra. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức liên hệ bản thân, cá nhân tôi thấy được rằng bản thân phải luôn phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan. Đặc biệt cần tránh tình trạng bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.

Bên cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Ngoài ra, cá nhân cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.

2. Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào công cuộc thời kỳ đổi mới của Đảng ở Việt Nam Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng,...) chứ không ở một lĩnh vực nào. Như đại hội VII của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi mới “ Một là phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, hai là đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bớt đi hình thức và cách làm phù hợp.” Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế, chính sách tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Đảng Cộng sản Việt Nam không tách mình ra khỏi quỹ đạo của sự phát triển nhân loại, đó chính là tham gia Toàn cầu hóa. Việt Nam dưới sự dẫn dắt của Đảng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia, tao mối quan hệ thương mại với hơn 220 vùng lãnh thổ, đấy chính là một trong những thành quả cho việc phát triển đúng hướng của Việt Nam. Ở quy mô nhỏ hơn, chính là xây dựng đội ngũ quản lý ở các địa phương, luôn biết đặt mình trong tổng thể liên kết để tạo ra một chính quyền đồng bộ, thống nhất. Có như vậy mới phát triển bền vững được. Chủ đề: Ba quy luật của PBCDV 1/ Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập: nguồn gốc của sự phát triển Ví dụ: Trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng sẽ phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng. Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng. Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng. Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng tiêu dùng, đây không phải là đối tượng nói chung mà là đối với những đối tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng. Do đó, sản xuất không chỉ là đối tượng tiêu dùng mà nó còn quyết định về phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó. Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, phát triển.

2/ Quy luật lượng chất: cách thức, hình thức của sự phát triển Ví dụ 1: Sau khi tan làm, đối tượng A đi xe máy với quãng đường 10 cây số từ cơ quan để có thể về đến nhà. Lúc này, tất cả sự thay đổi trong quãng đường mà A di chuyển từ cơ quan đến trước khi về đến nhà được coi là sự thay đổi về lượng, cho đến thời điểm A về đến nhà thì đó là có thay đổi về chất. Như vậy trong trường hợp cụ thể được nêu này, chúng ta có thể thấy sự thay đổi về lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất. Ví dụ 2: Một sing viên X tốt nghiệp trường A , sau khi ra trường luật X xin vào làm thực tập sinh cho một công ty sản xuất Y. Sau khi trải qua ba tháng thực tập, X được công ty xét duyệt lên vị trí chuyên viên pháp chế, sau khi làm chuyên viên được 05 năm, X được bổ nhiệm lên chức giám đốc pháp chế của công ty. Như vậy ví dụ trên có thể thấy X từ một sinh viên mới ra trường chập chững những vào nghề, qua quá trình làm việc chăm chỉ, học hỏi kinh nghiệm và trau dồi kiến thức, kĩ năng X đã dần tích lũy đủ cho mình một lượng kiến thức, kỹ năng, trong công việc. Đó là quy trình chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. X có bước nhảy từ vị trí thấp nhất rồi đến những những vị trí cao hơn trong công ty. 3/ Quy luật phủ định của phủ định: khuynh hướng của sự phát triển Ví dụ 1: Một con gà mái được coi là cái khẳng định nhưng khi con gà mái đó đẻ trứng thì quả trứng được coi là cái phủ định của con gà. Sau đó quả trứng trải qua thời gian vận động và phát triển thì quả trứng lại nở thành gà conn. Vậy gà con lúc này được coi là cái phủ định của phủ định mà phủ định của phủ định sẽ trở thành cái khẳng định. Sự vận động và phát triển này luôn diễn ra liên tục vận động và phát triển có tính chu kỳ. Ví dụ 2: Vòng đời của một con tằm bao gồm: Trứng - tằm - nhộng - ngài - trứng. Sự xuất hiện của “tằm” đã xóa bỏ sự tồn tại của “trứng” nên tằm là phủ định của trứng. “Nhộng” sinh sôi, tằm không còn là tằm nên “nhộng” là sự phủ định của “tằm”. “Ngài” phát triển từ “nhộng”, xóa bỏ sự tồn tại của “nhộng” nên “tằm” là phủ định của “nhộng”. Cuối cùng, trứng mới ra đời từ ngài, bắt đầu một quá trình mới.Trứng chính là sự phủ định của “ngài”. Quá trình phát triển của tằm đã trải qua 4 lần phủ định. Ví dụ 3: Giả sử chúng ta có một bài toán: "Chứng minh rằng nếu số tự nhiên n là số chẵn, thì số n + 1 là số lẻ." Đầu tiên, chúng ta có thể giả sử điều kiện ban đầu là đúng, tức là n là số chẵn. Tiếp theo, chúng ta sử dụng phủ định của phủ định để giả sử rằng số n + 1 không phải là số lẻ. Điều này có nghĩa là n + 1 phải là số chẵn. Nếu số n + 1 là số chẵn, điều này đồng nghĩa với việc n + 1 có thể được biểu diễn dưới dạng 2k, với k là một số tự nhiên. Nhưng n + 1 là kết quả của n + 1 = n + 2 - 1, và n là số chẵn. Do đó, n + 2 cũng là một số chẵn, điều này không thể xảy ra vì nếu n là số chẵn, n + 2 sẽ là số lẻ. Vì vậy, bằng cách phủ định của phủ định, chúng ta có thể kết luận rằng nếu n là số chẵn, thì n + 1 là số lẻ. Liên hệ thực tiễn quy luật phủ định của phủ định: Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới ở nước :

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vì thực tiễn vật chất hóa tri thức, hiện thực hóa tư thưởng để khẳng định tính đúng sai của tri thức: nghe tin mọi người nói khi tiêm vacxin sẽ làm mình dễ bị ốm và đau chỗ tiêm thì mình muốn biết thực thế như thế nào thì mình phải được tiêm vacxin đã rồi xem phản ứng trên người mình như thế nào( kiểm tra chân lý bằng thực tiễn ). ● Đảng và Nhà nước ta vận dụng vai trò thực tiễn Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn – nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận. Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đề chống lạm phát, chống tham nhũng, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm… Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định. Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa – đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay. Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới

  1. Bước chuyển thứ nhất: Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hóa sở hữu xã hội (Nhà nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất… sang tư duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp.
  2. Bước chuyển thứ hai: Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hóa tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
  1. Bước chuyển thứ ba: Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện.
  2. Bước chuyển thứ tư: Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một nước phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác – Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định nhận thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng đồng thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối chính sách.
  3. Bước chuyển thứ năm: Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội những nhận thức mới về nhân tố con người. Sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến hóa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp xây dựng kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò tích cực của mình đối với thực tiễn. Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội. Tóm lại : Đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có thể hành động đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn chính là động lực, là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những khiếm khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai sót và thiệt hại. CHỦ ĐỀ: SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ VAI TRÒ Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng ý nghĩa phương pháp luận về nguyên lý vai trò sản xuất vật chất thế nào trong quá trình phát triển đất nước? Muốn thúc đẩy xã hội phát triển, đất nước phát triển trước hết cần ưu tiên cho sản xuất vật chất và tạo điều kiện cho sản xuất vật chất phát triển. Các hoạt động tinh thần mặc dù đóng vai trò quan trọng nhưng chúng ta cũng cần hiểu rằng thúc đẩy sản xuất phát triển sẽ làm cho kinh tế phát triển và từ đó có thể giải quyết vấn đề khác của xã hội. Ở Việt Nam trong những năm vừa qua đã nhận thấy được điều này nên Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến lĩnh vực CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy lực lượng sản xuất, đầu tư rất lớn và kêu gọi nguồn đầu tư nước ngoài để phát triển khoa học công nghệ, đầu tư phát triển các khu công nghiệp lớn. Để tạo ra lượng của cải lớn, đáp ứng được nhu cầu tồn tại trong nước và đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu.

hoảng kinh tế - xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và cản trở bước tiến của cách mạng. Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; thành kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa; coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Cuộc sống dạy cho chúng ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật. Tại Đại hội VI - Đại hội khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ yếu là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó Đại hội đã rút ra bài học quan trọng là “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, phải “làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về thực chất chính là quay trở về với quy luật, với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp hơn với quy luật khách quan, trong gần 30 năm qua nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Chúng ta đã nhận thức rõ hơn quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong từng giai đoạn phát triển. Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đã chuyển từ công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” (Cương lĩnh năm 1991) sang công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Sự “phù hợp” ở đây trước hết là phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự không phù mới giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất. Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu nhập trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại khó có thể đạt được. Hiện nay các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, chế tác, phụ trợ... còn kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP.Năng suất lao động, hiệu quả,chất lượng sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp ( TPF) rất thấp. CHỦ ĐỀ: QUAN HỆ GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG Phần: Liên hệ với thực tiễn quá trình phát triển quá độ ở Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau. Các hình thức sở hữu đó tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, nhưng cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay sở hữu toàn dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. VD: 1. Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline, Vinamilk…

  1. Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công nghiệp ở các địa phương.
  2. Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Masan, Vietjet…
  3. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, Hyundai Vietnam… Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát triển hết mọi tiềm năng. Thứ hai, Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã khẳng định: ● Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân dân là người làm chủ xã hội. ● Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ, quân đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích của riêng nó mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền lực đều thuộc về nhân dân. ● Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Nói tóm lại, việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình lâu dài, gian khổ, diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ. Chủ đề: Tồn tại xh và ý thức xh Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong việc xây dựng đời sống tinh thần ở Việt Nam hiện nay. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã được khẳng định rất rõ ràng: tồn tại xã hội quyết đinh ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối đối với tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất đẻ thay đổi ý thức xã hội. Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xa hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời

Chủ đề: Bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. a. Con người là thực thể sinh học và xã hội:

  • Mặt sinh học:
  • Để nói về con người với tư cách là một thực thể sinh học, Mác - Lênin khẳng định: “Điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ và phần còn lại của giới tự nhiên” [C. Mác và Ph. Ăng ghen toàn tập, sdd, tập 3, tr. 11].
  • Con người là một thực thể sinh học, là sản phẩm của quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Với tư cách là một thực thể sinh học, con người cũng như các động vật khác có nhu cầu tự nhiên: ăn, uống, hít thở, tính dục, sinh con đẻ cái,… Những nhu cầu này đích thực là nhu cầu của sinh vật mà tất cả những loài động vật khác đều có.
  • Với tư cách là một thực thể sinh học, con người phải phục tùng những quy luật của giới tự nhiên như: sinh - lão - bệnh - tử, di truyền và biến dị, trao đổi qua lại giữa cơ thể với môi trường, đồng hóa và dị hóa,…
  • Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người: Để tồn tại và phát triển, con người không thể tách mình ra khỏi tự nhiên được mà phải dựa vào tự nhiên để sinh tồn (tự nhiên là môi trường sinh tồn của con người). Con người cần ánh sáng mặt trời, cần không khí để thở, cần tìm kiếm thức ăn, cải tạo tự nhiên để tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu đa dạng của nó: thực phẩm, quần áo, nhà ở,... Nói cách khác giới tự nhiên chính là thân thể vô cơ của con người.
  • Mặt xã hội:
  • Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người: nghĩa là con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong tương quan giữa người với người, trong các cộng đồng xã hội, như: gia đình, làng xóm, quốc gia dân tộc,… Nó không thể tồn tại và phát triển nếu tách ra khỏi xã hội loài người. Trong khi con vật có thể tồn tại mà không cần đến cộng đồng xã hội, có thể tồn tại một cách đơn độc.
  • Con người có các hoạt động xã hội mà hoạt động quan trọng nhất là lao động sản xuất. Từ lao động sản xuất mà ngôn ngữ và tư duy, ý thức được hình thành: Ngôn ngữ và tư duy, ý thức là sự thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người. Con vật không có tư duy nhưng con người thì có tư duy, ngôn ngữ. Ngôn ngữ và tư duy là sự thể hiện tập trung cho tính xã hội của con người bởi vì ngôn ngữ và tư duy chỉ được hình thành và phát triển trong xã hội, thông qua lao động và giao tiếp hay là tương quan giữa người với người. Chính vì thế, ngôn ngữ, tư duy chính là minh chứng sâu sắc cho tính xã hội của con người. b. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
  • Để phân biệt giữa con người và con vật có thể bằng nhiều hoạt động khác nhau: tôn giáo, ý thức, nghệ thuật,… Nhưng hoạt động đầu tiên làm cho con người tách ra khỏi đời sống động vật chính là hoạt động lao động sản xuất hay là hoạt động sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình. Nếu con vật chỉ sử dụng những thứ có sẵn trong tự nhiên thì con người không chỉ biết khai thác những thứ có sẵn trong tự nhiên mà còn biết lao động sản xuất tạo ra của cái vật chất phục vụ đời sống của mình. à Đây chính là hoạt động mang tính bản chất, đặc trưng của con người của

con người, làm cho con người khác biệt rất xa với con vật. Mác viết: “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [C. Mác và Ăngghen toàn tập, tập 3, tr. 10].

  • Chính lao động sản xuất đã cải tạo bản năng sinh học của con người làm cho con người trở thành người theo đúng nghĩa. Lao động đã làm hoàn thiện thân xác của con người, khiến cho nó có dáng đi thẳng, hoàn thiện các giác quan và phát triển não bộ. Chính lao động đã phát triển tư duy, ý thức, ngôn ngữ, chữ viết; chính lao động giúp con người xây dựng nền văn minh vật chất và tinh thần à giới tự nhiên thứ hai, phần không có sẵn. Điều này Ăngghen đã làm rõ điều này trong tác phẩm Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người. c. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân mình
  • Triết học Mác khẳng định, con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội và vừa là sản phẩm của chính bản thân mình.
  • Một mặt, sự hình thành nhân cách con người vừa bị quy định bởi điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử - xã hội; mặt khác bản chất, nhân cách của con người còn là sản phẩm do chính nó tạo ra. Con người không thụ động để hoàn cảnh nhào nặn mình mà nó còn chủ động để sáng tạo ra chính nó. Một phần là hoàn cảnh nhào nặn nên chúng ta và phần còn lại là chính chúng ta nhào nặn nên chính mình. d/ Con người vừa là chủ thể của lịch sử, cũng là sản phẩm của lịch sử
  • Con vật không sáng tạo ra lịch sử: Con người và con vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử của động vật là quá trình phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay. Lịch sử ấy không phải do chúng làm ra mà chúng tham dự vào, nhưng ngay cả khi chúng tham dự vào thì chúng cũng không ý thức được điều ấy. Và như vậy, con vật không phải là chủ thể của quá trình lịch sử của chúng.
  • Con người sáng tạo ra lịch sử: Con người có lịch sử của mình và con người chính là chủ thể của quá trình lịch sử đó. Vậy con người đã sáng tạo ra lịch sử như thế nào? Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách ra khỏi đời sống con vật chính là hoạt động chế tạo ra công cụ sản xuất. Chính thời điểm đó con người bắt đầu sáng tạo ra lịch sử của mình. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã tạo ra toàn bộ nền văn minh vật chất để phục vụ nhu cầu của mình. Từ trên cơ sở hoạt động sản xuất vật chất, con người đã sáng tạo ra toàn bộ đời sống tinh thần: chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, triết học,... Cũng thông qua hoạt động sản xuất, con người đã làm cho lịch sử vận động và phát triển từ trình độ này sang trình độ khác, từ thấp lên cao. *** Con người là sản phẩm của lịch sử**
  • Không thể có con người trừu tượng, thoát ly khỏi mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mà sự hình thành và phát triển con người luôn chịu sự quy định của điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh xã hội và thời đại mà nó đang sống.
  • Sự hình thành và phát triển con người bị quy định bởi giới tự nhiên: con người là một thực thể sinh học, là một bộ phận của giới tự nhiên. Để tồn tại và phát triển, con người để tồn tại phải tuân theo các quy luật của giới tự nhiên, phải biến đổi mình để thích nghi, thích ứng, hòa nhịp với giới tự nhiên.

đạo đức, giáo dục pháp luật, lý tưởng sống trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. [tri thức khoa học]. 3/ Trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật: Văn hóa nghệ thuật là sự sáng tạo theo yêu cầu của cái đẹp, là động lực thúc đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện toàn mĩ. Văn hóa nghệ thuật góp phần xây dựng tình cảm tốt đẹp, tác động tới nếp nghĩ, lối sống, phong cách làm việc của con người. Việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ có tác dụng tích cực góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong thời đại toàn cầu hóa. Chủ đề : Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại Vận dụng quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại vào hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên Đôi nét về hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh Tri thức là hành trang không thể thiếu của mỗi người. Từ khi sinh ra, chúng ta đã tích lũy tri thức theo từng giai đoạn phát triển: từ những điều cơ bản nhất như ngôn ngữ, đồ vật, màu sắc,… đến những kiến thức về các lĩnh vực trong cuộc sống như văn học, toán học, lịch sử. Đặc biệt là những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta được tiếp thu những tri thức cơ bản về cuộc sống trong lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh cũng trang bị thêm cho mình những kiến thức thực tiễn, những kĩ năng mềm cần thiết cho cuộc sống sau này. Tuy nhiên, 12 năm học trung học và phổ thông và những năm trên giảng đường đại học vẫn là thời gian quan trọng nhất bởi đó là thời điểm chúng ta trang bị cho mình những kiến thức cơ bản nhất mà mỗi người đều phải biết trong xã hội ngày nay. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình này là một vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết để từ đó có thể hiểu rõ hơn hoạt động và giúp hoạt động này đạt được hiệu quả cao nhất. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại và vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách tham khảo,… thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao hơn. Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút và việc học sinh được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy. Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau. Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước nhảy vô cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên. Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi sinh

viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung học hay một học sinh phổ thông. Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay phổ thông. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở là những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp để nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc. Cứ như vậy, quá trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục diễn ra, tạo nên sự vận động không ngừng trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt đến trình độ cao hơn, tạo động lực cho xã hội phát triển. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng-chất vào tìm hiểu về cách thức vận động của quá trình tích lũy kiến thức của học sinh từ đó đưa ra giải pháp nhằm khắc phục những điểm thiếu sót và hạn chế của hiện tượng Quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh, sinh viên đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của xã hội, của đất nước. Bởi chính quá trình này tạo ra những con người có đủ năng lực để tiếp quản đất nước, đưa đất nước phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu. Vì vậy, mỗi học sinh, sinh viên cần phải có nhận thức rõ ràng, đúng đắn về vấn để này, phải tích đủ lượng tới giới hạn điểm nút thì mới được thực hiện bước nhảy, không được nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo điều kiện cho những sinh viên cảm thấy mình đủ năng lực có thể đăng kí học vượt để ra trường sớm. Tuy nhiên cũng có không ít sinh viên đăng kí học vượt nhưng không đủ khả năng để theo, dẫn đến hậu quả là phải thi lại chính những môn đã đăng kí học vượt. Điều này cũng có nghĩa là các sinh viên đó chưa tích lũy đủ về lượng đến giới hạn điểm nút mà đã thực hiện bước nhảy, đi ngược lại với quy luật lượng – chất, và hậu quả tất yếu là sự thất bại. Bên cạnh đó, thực trạng nền giáo dục của nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại căn bệnh thành tích, đặc biệt là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Tức là học sinh chưa tích lũy đủ lượng cần thiết đã được tạo điều kiện để thực hiện thành công bước nhảy, điều này đã khiến cho nền giáo dục của chúng ta có những người không có cả “chất” và “lượng”, dẫn đến những vụ việc rất vô lí như học sinh đi học không viết nổi tên mình mà vẫn được lên lớp, chỉ vì nếu cho ở lại sẽ làm ảnh hưởng đến thành tích phổ cập giáo dục của trường. Ví dụ như vụ việc vào tháng 10/2014, chị Hoàng Thị Thu (trú xóm Hồng Tiến, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) không đồng ý con trai mình là Bảo Quân bị nhà trường “bắt ép” lên lớp 2. Phụ huynh này đã xin cho con học lại lớp 1, vì cháu chưa thuộc hết bảng chữ cái. Các chữ O, A…, em cũng không biết. Tuy nhiên, yêu cầu cho con học lại lớp 1 của chị Thu không được giáo viên chủ nhiệm chấp thuận, vì ảnh hưởng thành tích phổ cập giáo dục của nhà trường. Đến gặp ban giám hiệu, chị cũng nhận được cái lắc đầu vì lý do tương tự. Như vậy, có thể khẳng định việc đốt cháy giai đoạn theo khuynh hướng tả khuynh là một hành động sai lầm, tuy nhiên, sự bảo thủ, trì trệ theo khuynh hướng hữu khuynh cũng như vậy. Nếu lượng đã tích đủ, đạt đến điểm nút mà vẫn không thực hiện bước nhảy thì quan niệm phát triển cũng chỉ là sự tiến hóa đơn thuần về lượng, không phải về chất, như thế thì sự vật sẽ không phát triển được. Bên cạnh đó, do hình thức bước nhảy của sự vật rất đa dạng, phong phú nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy trong những điều kiện, lĩnh vực cụ thể. Trong quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh không thể áp dụng hình thức bước nhảy đột biến, không thể có chuyện học sinh mới đi học đã có thể tham gia kì thi tốt nghiệp, mà phải thực hiện bước nhảy dần dần: