Download hỏi đáp pháp luật..... and more Quizzes Law in PDF only on Docsity!
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT VỀ
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
UBND TỈNH HƯNG YÊN
THANH TRA TỈNH HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG HƯNG YÊN - 2021
CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
Đào Văn Sơn
Chánh Thanh tra tỉnh
CHỦ BIÊN
Lê Xuân Khánh
Phó Chánh Thanh tra tỉnh
Đỗ Văn Phóng
Chánh Văn phòng Thanh tra tỉnh
THAM GIA BIÊN SOẠN
Nguyễn Đức Cảnh
Trưởng phòng Thanh tra phòng, chống tham nhũng
LỜI NÓI ĐẦU
Luật Phòng, chống tham nhũng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/11/2018; được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Lệnh công bố vào ngày 04/12/2018 và chính
pháp luật phòng, chống tham nhũng. Thanh tra tỉnh Hưng Yên trân trọng giới thiệu.
Hưng Yên, tháng 12 năm 2021
THANH TRA TỈNH HƯNG YÊN
PHẦN I
HỎI - ĐÁP MỘT SỐ NỘI DUNG CHUNG VỀ
PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG
Câu 1. Tại sao phải ban hành Luật Phòng, chống
tham nhũng (PCTN) năm 2018 thay cho Luật PCTN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012)? Trả lời: Việc Quốc hội ban hành Luật PCTN năm 2018 thay cho Luật PCTN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007,
- – sau đây gọi tắt là Luật PCTN năm 2005 dựa trên những lý do cơ bản sau đây: a) Việc xây dựng Luật PCTN năm 2018 nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập qua hơn 10 năm thi hành Luật PCTN năm 2005. Sau hơn 10 năm thi hành Luật PCTN năm 2005, công tác PCTN đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; giúp cải thiện môi trường kinh doanh và đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Nỗ lực PCTN của Việt Nam cũng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong khuôn khổ thực thi Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên và các diễn đàn quốc tế khác. Tuy nhiên, tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, công tác phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu, số vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện còn ít, 7 một số vụ việc xử lý còn kéo dài, chưa nghiêm, thu hồi tài sản tham nhũng đạt kết quả thấp, gây tâm lý bức xúc và hoài nghi trong xã hội về quyết tâm PCTN của Đảng và Nhà nước ta. Kết quả 10 năm thực hiện Luật PCTN năm 2005^1 cho thấy, những bất cập của Luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, cụ thể như sau:
- Thứ nhất, quy định về công khai, minh bạch còn chưa mang tính bao quát và thiếu các biện pháp bảo đảm
- Thứ tư, các quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị mình còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng và không khuyến khích được tính chủ động của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng…
- Thứ năm, các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập; còn vướng mắc về trình tự, thủ tục công khai bản kê khai, giải trình, xác minh tài sản, thu nhập khi có yêu cầu; chưa quy định rõ việc sử dụng bản kê khai tài sản vào mục đích phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng…
- Thứ sáu, các quy định về cơ chế phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chưa phù hợp, đặc biệt là cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra, kiểm toán với cơ quan điều tra trong phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng chưa phát huy vai trò của mỗi cơ quan trong xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.
- Thứ bảy, các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng còn thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện, đặc biệt là các biện pháp bảo vệ người tố cáo, khen thưởng người có thành tích trong tố cáo tham nhũng… 9
- Thứ tám, thiếu quy định về các biện pháp xử lý phi hình sự đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến hành vi tham nhũng và thiếu quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền để xử lý các hành vi vi phạm Luật PCTN… Những hạn chế, bất cập nêu trên dẫn đến hiệu quả công tác PCTN chưa cao. b) Xây dựng Luật PCTN nhằm tiếp tục quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng về PCTN Việc xây dựng Luật PCTN xuất phát từ việc chỉ đạo
của Đảng, Nhà nước ta trong việc đẩy mạnh công tác PCTN:
- Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đưa ra nhiều giải pháp cụ thể về PCTN như việc nâng cao các biện pháp minh bạch tài sản, thu nhập, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu…
- Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03/01/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản yêu cầu thực hiện thêm các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê khai, kiểm soát tài sản như quản lý bản kê khai và việc sử dụng, khai thác dữ liệu bản kê khai nhằm phát hiện tham nhũng…
- Thông báo số 116/TB-BCD9TW ngày 14/5/2015 của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tại phiên họp thứ 7 của Ban, Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo đã kết luận cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi toàn diện Luật PCTN năm 2005 để đáp ứng sát hơn các yêu cầu về PCTN, hạn chế tình trạng “tham nhũng vặt”… 10
- Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng yêu cầu thực hiện nhiều giải pháp về PCTN như nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sát với thực tiễn của nước ta và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt thống nhất trong quy định về hành vi tham nhũng giữa Bộ luật Hình sự và Luật PCTN và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; hoàn thiện quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, sự phối hợp giữa các cơ
về Chống tham nhũng trong Chu trình đầu tiên đối với Chương III về hình sự hóa, thực thi pháp luật và Chương IV về hợp tác quốc tế cho thấy Việt Nam đáp ứng phần lớn các yêu cầu của Công ước, đặc biệt là các yêu cầu mang tính bắt buộc. Chu trình đánh giá tiếp theo đối với Chương II về các biện pháp phòng ngừa tham nhũng và Chương V về thu hồi tài sản bắt đầu từ năm 2016 đã chỉ ra nhiều công việc cần phải triển khai trong công tác PCTN của Việt Nam. Theo đó, cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng trong cả khu vực nhà nước và ngoài nhà nước một cách toàn diện, sâu sắc… Từ những lý do nêu trên, việc ban hành Luật PCTN năm 2018 thay thế Luật PCTN năm 2005 là rất cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật PCTN năm 2005, thể chế hóa quan điểm của Đảng về PCTN và đảm bảo sự đồng bộ giữa Luật PCTN với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như bảo đảm tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng. 12 Câu 2. Tham nhũng là gì? Những hành vi nào bị coi là hành vi tham nhũng? Trả lời: Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có nhiều cách định nghĩa khách nhau về tham nhũng. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để tham ô và hạch sách, nhũng nhiễu dân^1. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – TI), tham nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) thì tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi
riêng… Trên phương diện pháp lý, Luật PCTN năm 2018 đưa ra khái niệm: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Khái niệm này được kế thừa hoàn toàn từ Luật PCTN năm
Như vậy, hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về tham nhũng. Tuy nhiên, từ các khái niệm trên cho thấy, có 03 đặc điểm cấu thành hành vi tham nhũng gồm: Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn (người có chức vụ, quyền hạn được định nghĩa tại Khoản 2 Điều 3 Luật PCTN năm 20182 ); 1 Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998, tr.1523. 2 Khoản 2 Điều 3 Luật PCTN năm 2018: “2. Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm: a) Cán bộ, công chức, viên chức; 13 Thứ hai, có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao; Thứ ba, mục đích của hành vi tham nhũng là nhằm vụ lợi. Điều này thể hiện hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Luật PCTN năm 2018 cũng đưa ra giải thích rõ ràng về khái niệm vụ lợi đó là nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng. Theo quy định tại Điều 2 Luật PCTN năm 2018, hành vi tham nhũng được phân chia thành hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước (gồm 12 hành vi) và các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước mới được bổ
sản công vì vụ lợi; k) Nhũng nhiễu vì vụ lợi; l) Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; m) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
- Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện bao gồm: a) Tham ô tài sản; b) Nhận hối lộ; c) Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi”. 15 Câu 3. Hành vi tham nhũng theo quy định của Luật PCTN năm 2018 và Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có điểm gì khác nhau? Trả lời: Luật PCTN năm 2018 quy định 12 hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước và 04 hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước; Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định 14 hành vi thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ trong đó có 07 hành vi tham nhũng và 07 hành vi thuộc các tội phạm khác về chức vụ. Quy định về hành vi tham nhũng trong Luật PCTN năm 2018 và Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cơ bản thống nhất, tuy nhiên, do nhiệm vụ của từng đạo luật (01 đạo luật chung về PCTN và 01 đạo luật
quy định về tội phạm trong đó có tội phạm tham nhũng) nên giữa hai văn bản có một số điểm khác biệt nhất định khi quy định về hành vi tham nhũng, cụ thể như sau: Nội dung Luật PCTN năm 2018 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Về phân chia hành vi tham nhũng Phân chia thành hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước và hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước
- Phân chia thành nhóm tội phạm tham nhũng và các tội phạm khác về chức vụ.
- Quy định về hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước được lồng ghép vào các điều quy định về tội phạm tham nhũng (Khoản 6 Điều 353 Tội tham ô tài sản; Khoản 6 Điều 354 Tội nhận hối lộ; Khoản 6 Điều 364 Tội đưa hối lộ; Khoản 7 Điều 365 Tội môi giới hối lộ). 16 Nội dung Luật PCTN năm 2018 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Về những hành vi được gọi là tham nhũng và tội phạm tham nhũng Quy định 12 hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước trong đó có 08 hành vi đầu tiên được Bộ luật Hình sự quy định, còn lại 04 hành vi sau chưa được Bộ luật Hình sự quy định. Tuy nhiên, đây là những hành vi xuất hiện ngày càng phổ biến trên thực tế, nên việc quy định trong Luật PCTN là rất cần thiết để đấu tranh với các biểu hiện ngày càng phức tạp của hành vi tham nhũng. Hình sự hóa 08 trong 12 hành vi tham nhũng của Luật PCTN.
trong khu vực ngoài nhà nước. Theo đó, các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước cơ bản giữ nguyên như quy định của Luật PCTN năm 2005 (gồm 12 hành vi), các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước được bổ sung (gồm 04 hành vi) để thống nhất với quy định của Bộ luật Hình sự và khái niệm tham nhũng quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật PCTN năm 2018.
- Quy định về người có chức vụ, quyền hạn: Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 3 của Luật PCTN năm 2018, người có chức vụ, quyền hạn bao gồm cả “người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức”. Doanh nghiệp, tổ chức ở đây được hiểu bao gồm cả doanh nghiệp, tổ chức khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước.
- Luật PCTN năm 2018 đã dành 01 chương (Chương VI) để quy định về PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trong đó quy định việc áp dụng bắt buộc 18 một số chế định của Luật PCTN đối với một số loại hình tổ chức xã hội, doanh nghiệp bao gồm: Công ty đại chúng; Tổ chức tín dụng; Tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện.
- Chương IX của Luật PCTN năm 2018 đã quy định về xử lý tham nhũng (trong cả khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước), đồng thời quy định về xử lý hành vi khác vi phạm pháp luật về PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
Câu 5. Tại sao Luật PCTN năm 2018 mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực ngoài nhà nước? Trả lời: Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực ngoài nhà nước của Luật PCTN năm 2018 là một trong những điểm khác biệt cơ bản so với Luật PCTN năm 2005. Điều này xuất phát từ những lý do sau đây:
- Thứ nhất, mở rộng phạm vi điều chỉnh nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn: Trong bối cảnh hiện nay, khi nạn tham nhũng đang diễn ra nghiêm trọng và gây nhiều bức xúc trong xã hội, do đó, Đảng, Nhà nước ta đang coi việc PCTN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách. PCTN được coi là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó có vai trò của cả người dân và doanh nghiệp. Trong vấn nạn tham nhũng, doanh nghiệp được nhìn nhận dưới góc độ 19 vừa là “nạn nhân” vừa là “tác nhân” của tình trạng này. Khu vực công và khu vực tư được nhiều chuyên gia nhìn nhận như “bình thông nhau” vì có mối quan hệ tác động qua lại, khu vực tư đôi khi là nơi ẩn giấu, là sân sau của hành vi tham nhũng trong khu vực công. Vì vậy, để PCTN có hiệu quả, không thể không làm lành mạnh hóa môi trường hoạt động, kinh doanh của khu vực tư.
- Thứ hai, mở rộng phạm vi điều chỉnh nhằm phù hợp với quan điểm của Đảng về PCTN; đồng bộ với quy định của Bộ luật Hình sự, phù hợp với yêu cầu của Công ước quốc tế: Việc mở rộng quy định về PCTN trong khu vực ngoài nhà nước đảm bảo phù hợp với quan điểm chỉ đạo tại Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về
PHẦN II
HỎI ĐÁP VỀ PHÒNG NGỪA THAM NHŨNG
TRONG CƠ QUAN, TỔ CHỨC, ĐƠN VỊ
Mục 2. Công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị Câu 6. Quy định về công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị của Luật PCTN năm 2018 có điểm gì khác so với Luật PCTN năm 2005? Trả lời: Công khai, minh bạch trong tổ chức, hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được xác định là một biện pháp rất quan trọng và hữu hiệu để phòng ngừa tham nhũng. Để tránh trùng lặp với quy định về nội dung công khai, minh bạch trong các luật chuyên ngành, Luật PCTN năm 2018 đã quy định theo hướng bao quát hơn. Theo đó, bỏ 18 điều trong Luật PCTN năm 2005 (từ Điều 13 đến Điều 30) và tập trung quy định một số nội dung cơ bản về nguyên tắc công khai; nội dung công khai; hình thức công khai và đặc biệt xác định rõ trách nhiệm công khai thuộc về người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị; chế độ họp báo, phát ngôn, cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi có yêu cầu (từ Điều 9 đến Điều 15). Theo quy định tại Điều 80 Luật PCTN năm 2018, các quy định về nguyên tắc công khai, minh bạch; nội dung công khai, minh bạch; hình thức công khai; trách nhiệm thực hiện
về công khai, minh bạch cũng được áp dụng bắt buộc đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của Nhân dân để hoạt động từ thiện. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này tại doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước sẽ có những điểm khác biệt so với khu vực nhà nước. Do vậy, Luật PCTN năm 2018 giao cho Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng các quy định này trong các loại hình doanh nghiệp, tổ chức này. Câu 7. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai, minh bạch những nội dung gì? Trả lời: Để tránh trùng lặp với các luật chuyên ngành, Luật PCTN năm 2018 chỉ quy định khái quát những nội dung mà các cơ quan, tổ chức, đơn vị bắt buộc phải công khai, minh bạch. Nội dung công khai, minh bạch trong từng ngành, lĩnh vực sẽ được luật chuyên ngành quy định cụ thể để đảm bảo phù hợp với đặc điểm ngành, lĩnh vực đó nhưng phải đảm bảo trên cơ sở các quy định chung này của Luật PCTN. Cụ thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật PCTN năm 2018, cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai, minh bạch những nội dung sau đây:
- Việc thực hiện chính sách, pháp luật có nội dung liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang; người lao động và công dân; 23
- Việc bố trí, quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản