









Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
Đề cương ktct MLN ...............
Typology: Exercises
1 / 16
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ hai điều kiện sau đây: a) Phân công lao động xã hội Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội vào các ngành, nghề khác nhau trong đó mỗi người chỉ sản xuất ra một hoặc một vài sản phẩm nhất định. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hoá lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau khiến cho xã hội ngày càng có nhiều ngành nghề Phân công lao động là cơ sở, tiền đề của sản xuất hàng hóa. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song, nhu cầu tiêu dùng trên thực tế lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. Tuy nhiên, phân công lao động xã hội chỉ mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ. C. Mác đã chứng minh rằng, trong công xã thị tộc ấn Độ thời cổ, đã có sự phân công lao động khá chi tiết, nhưng sản phẩm lao động chưa trở thành hàng hoá. Bởi vì tư liệu sản xuất là của chung nên sản phẩm và từng nhóm sản xuất chuyên môn hoá cũng là của chung; công xã phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu. C. Mác viết: "Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá"1. Vậy muốn sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai nữa. b) Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất làm cho những người sản xuất có quyền độc lập , tự chủ trong việc sản xuất kinh doanh và phân phối sản phẩm. Khi đó sự trao đổi sản phẩm giữa người sản xuất sẽ được thực hiện dưới hình thức trao đổi mua bán. Sự tách biệt này là do có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cá nhân có quyền sở hữu tư liệu sản xuất nên có quyền sở hữu sản phẩm lao động. Do đó người khác muốn có sản phẩm ấy phải thông qua sự mua- bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa. Ở Việt Nam, có sự tách biệt này còn do sự tách biệt giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu trong hình thức sở hữu nhà nước. Trong xã hội có sự đa dạng hóa sở hữu, thừa nhận sở hữu tư nhân. Tuy nhiên nhà nước nắm giữ quyền sở hữu còn trao quyền sử dụng cho doanh nghiệp để doanh nghiệp được độc lập sản xuất và phân phối sản phẩm. Từ đó cũng hình thành nên sự trao đổi mua bán hàng hóa theo nguyên tắc thuận mua vừa bán. → Đây là điều kiện đủ cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa. Vậy, sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hoá.
1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính: a) Giá trị sử dụng Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu của con người. Ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất... Công dụng của vật phẩm, giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng khai thác, lợi dụng được tính có ích của vật chất dẫn đến ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau, nhiều giá trị sử dụng khác nhau. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào. Đã là hàng hóa thì phải có giá trị sử dụng thì mới trao đổi, mua bán được. Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bản, để trao đổi, cũng có nghĩa là phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. b) Giá trị hàng hoá: Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là tỷ lệ về lượng mà 1 giá trị sử dụng này trao đổi với 1 giá trị sử dụng khác. Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy không phải là giá trị sử dụng. Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai hàng hoá. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng hoá làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi. Chúng được trao đổi theo một tỷ lệ nhất định nhưng lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau. Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội để sản xuất ra hàng hóa. Hao phí lao động xã hội bao gồm hao phí lao động sống của người lao động sản xuất trực tiếp ra sản phẩm ( thể lực, trí lực, thời gian) và hao phí lao động trong quá khứ để sản xuất ra tư liệu sản xuất. Trong quy mô xã hội, giá trị của hàng hóa do hao phí lao động trung bình quy định. Giá trị hàng hóa là nội dung còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị hàng hóa quyết định giá trị trao đổi. Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển thì lượng giá trị hàng hóa càng có xu hướng giảm xuống do hao phí lao động giảm xuống. → Vậy, bất kì hàng hóa nào cũng có 2 thuộc tính trên. Giữa 2 thuộc tính vừa có sự thống nhất vừa có sự mâu thuẫn với nhau. 2. Lượng giá trị của hàng hóa và các nhận tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hóa a) Cơ sở xác định lượng giá trị hàng hóa
1. Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ: a) Nguồn gốc của tiền tệ: Tiền tệ xuất hiện là kết quả của việc liên tục giải quyết những khó khăn phát sinh trong quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. b) Bản chất của tiền tệ Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. 2. Các chức năng của tiền tệ a) Thước đo giá trị - Tiền có thể dung để biểu hiện và đo lường giá trị của hàng hóa. - Giá cả của hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa → Giá trị hàng hóa là nhân tố nội sinh hình thành nên giá cả vì giá cả bám sát xoay xung quanh trục giá trị. - Nhân tố ngoại sinh tác động đến giá cả: + Giá trị của đồng tiền: thường có xu hướng giảm làm giá cả tăng lên. + Cung – cầu: Cung >cầu thì giá cả <giá trị; Cung <cầu thì giá cả >giá trị; Cung =cầu thì giá cả =giá trị + Sự điều tiết của Chính phủ, Nhà nước - Ở bất kể điểm nào mà giá cả khác giá trị thì xu thế vận động của thị trường là theo thời gian giá cả cân bằng với giá trị. b) Phương tiện lưu thông - Tiền được sử dụng làm trung gian môi giới của quá trình trao đổi mua bán với vai trò là vật ngang giá chung. - Công thức lưu thông hàng hóa: Hàng- Tiền – Hàng (H-T-H) c) Phương tiện thanh toán: được dùng làm phương tiện thanh toán, chi trả sau khi các công việc thanh toán được hoàn tất. d) Phương tiện cất trữ: - Phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong tương lai
1. Nội dung của quy luật giá trị Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được. Trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. **2. Tác động của quy luật giá trị a) Điều tiết và lưu thông hàng hóa:
2. Hàng hóa sức lao động a) Điều kiện biến sức lao động trở thành hàng hóa - Sức lao động , đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích.
1. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư *** Những đặc trưng cơ bản của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa:** - Sản xuất TBCN là sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn. Đó là sự kết hợp của 3 quá trình: sản xuất ra giá trị sử dụng; sản xuất ra giá trị; sản xuất ra giá trị thặng dư ( đây là mục đích tuyệt đối hóa của TBCN)
tạo ra nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt. *** Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, ta rút ra 3 kết luận:**
hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hoá sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
3. GTTD siêu ngạch GTTD siêu ngạch là phần GTTD thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó. Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, xuất hiện và mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng. C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao động xã hội). Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được. Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số các nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản. Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hoá.
1. Lợi nhuận - Lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, nhưng được quan niệm do toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí sản xuất → p = (c+v+m) – (c+v )=m
→ Ý nghĩa: Tỷ suất lợi nhuận phản ánh hiệu quả của công việc đầu tư tư bản ( mức doanh lợi, sinh lời của việc đầu tư) *** Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận**
Giả sử TBTN ứng ra 100 tư bản để kinh doanh thì tổng tư bản ứng ra của cả 2 nhà tư bản là: 900+100=1000. Tỷ suất lợi nhuận bình quân là: 𝑝̅ = 180 1000
Theo tỷ suất lợi nhuận chung này, TBCN chỉ thu được khoản lợi nhuân bằng 18% số tư bản ứng ra tức 18%.900=162, và TBCN sẽ bán hàng hóa cho TBTN với giá : 900+162=1062. Còn TBTN sẽ bán hàng cho người tiêu dùng theo giá bằng giá trị hàng hóa là 1080 Khi đó, lợi nhuận thương nghiệp là: pthương nghiệp=1080 – 1062 =18 tương ứng với tỷ suất 18% của TBTN ứng trước.
1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều nhất định phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kì còn có sự đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Hơn nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất. So với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại công nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó. Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân cần phải có thời gian để từng bước làm quen với công việc đó. 2. Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.