Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

Các chuyên đề về lí luận văn học, Thesis of Literature

Lí luận văn học cho HSG tài liệu

Typology: Thesis

2018/2019

Uploaded on 08/03/2024

dokyeom-beanie
dokyeom-beanie 🇻🇳

1 document

1 / 105

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
NHÀ VĂN VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC
I. NHÀ VĂN
1.1. Thiên chức nhà văn
- Thiên chức của vị sứ gi văn hóa: Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm mang tính cầu nối
để con người đến với con người, thời đại này đến với thời đại khác, nền văn hóa này đến
với nền văn hóa khác...
- Thiên chức sáng tạo: Nhà văn Nam Cao từng nói rằng: “Nghệ thuật không phải là
ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối”. Đúng vậy nghệ thuật phải nên
là ánh trăng tỏa sáng đẹp nhất lung linh nhất, nhưng cũng phải chân thật, dịu dàng nhất.
Dấn thân vào con đường nghệ thuật, người nghệ sĩ phải luôn là những người lao động sáng
tạo.
Quá trình lao động sáng tạo ấy là để tạo ra:
+ Những tác phẩm mới mẻ về nội dung (thể hiện những khám phá phát hiện về đời
sống, phát hiện ra cái đẹp cả ở những nơi không ngờ tới).
+ Tạo ra sự mới mẻ về hình thức nghệ thuật (sáng tạo ra những hình thức nghệ
thuật mới lạ, hướng đến sự hoàn mĩ).
+ Tạo ra cái độc đáo (phong cách riêng): Nhà văn Nguyễn Tuân đừng bày tỏ quan
điểm của mình: ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo”. Trong lĩnh vực nghệ thuật cũng
vậy văn trương luôn cần sự đổi mới và cách tân của người nghệ sĩ. Mỗi nghệ sĩ có thể đến
với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Mỗi chúng ta sinh ra đều có
rất nhiều cách chọn cuộc sống cho riêng mình, cũng như đối với nghệ sĩ đều có quan điểm
đến với nghệ thuật cá nhân. Nguyễn Đình Thi từng nói: “ bắt rễ từ cuộc đời, hàng ngày văn
nghệ lai tạo sự sống cho con người”, “ Nghệ thuật là sự mô phỏng tự nhiên” (Ruskin) và “
cuộc đời là nơi xuất bản, cũng là nơi đi tới của văn học” ( Tố Hữu). Nghệ sĩ là người luôn
bày tỏ suy nghĩ quan điểm, cảm nhận của mình trước mọi biến thái của cuộc đời theo
những cách khác nhau và từ đó mang đến cho người đọc những rung cảm khác nhau.
nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo” ( Nguyễn Tuân), vì vậy mỗi nhà văn cần phải không
ngừng sáng tạo biến tấu và theo dõi theo tác phẩm văn học của mình những điều mới mẻ,
mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là “ phát minh mới về hình thức và khám phá về nội dung”.
Văn học không quá đòi hỏi sự cầu kỳ, văn học đòi hỏi sự sáng tạo. Mỗi nhà văn đến với
nghệ thuật muốn ghi dấu ấn trong nền văn chương thì cần phải có phong cách, quan điểm
sáng tác riêng không lẫn với bất kỳ người nào khác, “Không có tiếng nói riêng không mang
lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫn theo đường mòn thì tác phẩm nghệ
thuật sẽ chết” (Lêônit lêônốp).
Người nghệ sĩ không được dẫm theo dấu chân của người khác, phải là người biết
“khơi những nguồn chưa ai khơi”, hoặc đổi mới những điều mà “ ai cũng biết cả rồi”. Nghệ
thuật chân chính đòi hỏi những tiêu chí cao như vậy. Bởi lẽ nếu tác phẩm nghệ thuật không
có sức sáng tạo, nhà văn không tạo ra phong cách con đường riêng của mình thì văn
chương sẽ chẳng có ý nghĩa gì với cuộc đời. Tạo ra phong cách riêng, con đường riêng,
sáng tác riêng của mình người nghệ sĩ sẽ tạo ra sự sáng tạo trong tác phẩm thể hiện được
khả năng cá nhân và gây được ấn tượng trong lòng người đọc
- ớng con người đến cái đẹp, cái thiện, cái cao cả (chân-thiện-mĩ): Nhà văn phải là
“ những nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Bàn về thiên chức của nhà văn và nhiệm vụ
của văn chương Lã Nguyên đã có ý kiến: “ mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương
và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Nhưng tư duy nghệ thuật dù có đổi
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15
pf16
pf17
pf18
pf19
pf1a
pf1b
pf1c
pf1d
pf1e
pf1f
pf20
pf21
pf22
pf23
pf24
pf25
pf26
pf27
pf28
pf29
pf2a
pf2b
pf2c
pf2d
pf2e
pf2f
pf30
pf31
pf32
pf33
pf34
pf35
pf36
pf37
pf38
pf39
pf3a
pf3b
pf3c
pf3d
pf3e
pf3f
pf40
pf41
pf42
pf43
pf44
pf45
pf46
pf47
pf48
pf49
pf4a
pf4b
pf4c
pf4d
pf4e
pf4f
pf50
pf51
pf52
pf53
pf54
pf55
pf56
pf57
pf58
pf59
pf5a
pf5b
pf5c
pf5d
pf5e
pf5f
pf60
pf61
pf62
pf63
pf64

Partial preview of the text

Download Các chuyên đề về lí luận văn học and more Thesis Literature in PDF only on Docsity!

NHÀ VĂN VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC

I. NHÀ VĂN

1.1. Thiên chức nhà văn

  • Thiên chức của vị sứ giả văn hóa: Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm mang tính cầu nối để con người đến với con người, thời đại này đến với thời đại khác, nền văn hóa này đến với nền văn hóa khác...
  • Thiên chức sáng tạo: Nhà văn Nam Cao từng nói rằng: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối”. Đúng vậy nghệ thuật phải nên là ánh trăng tỏa sáng đẹp nhất lung linh nhất, nhưng cũng phải chân thật, dịu dàng nhất. Dấn thân vào con đường nghệ thuật, người nghệ sĩ phải luôn là những người lao động sáng tạo. Quá trình lao động sáng tạo ấy là để tạo ra:
  • Những tác phẩm mới mẻ về nội dung (thể hiện những khám phá phát hiện về đời sống, phát hiện ra cái đẹp cả ở những nơi không ngờ tới).
  • Tạo ra sự mới mẻ về hình thức nghệ thuật (sáng tạo ra những hình thức nghệ thuật mới lạ, hướng đến sự hoàn mĩ).
  • Tạo ra cái độc đáo (phong cách riêng): Nhà văn Nguyễn Tuân đừng bày tỏ quan điểm của mình: “ ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo”. Trong lĩnh vực nghệ thuật cũng vậy văn trương luôn cần sự đổi mới và cách tân của người nghệ sĩ. Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Mỗi chúng ta sinh ra đều có rất nhiều cách chọn cuộc sống cho riêng mình, cũng như đối với nghệ sĩ đều có quan điểm đến với nghệ thuật cá nhân. Nguyễn Đình Thi từng nói: “ bắt rễ từ cuộc đời, hàng ngày văn nghệ lai tạo sự sống cho con người”, “ Nghệ thuật là sự mô phỏng tự nhiên” (Ruskin) và “ cuộc đời là nơi xuất bản, cũng là nơi đi tới của văn học” ( Tố Hữu). Nghệ sĩ là người luôn bày tỏ suy nghĩ quan điểm, cảm nhận của mình trước mọi biến thái của cuộc đời theo những cách khác nhau và từ đó mang đến cho người đọc những rung cảm khác nhau. “ nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo” ( Nguyễn Tuân), vì vậy mỗi nhà văn cần phải không ngừng sáng tạo biến tấu và theo dõi theo tác phẩm văn học của mình những điều mới mẻ, mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là “ phát minh mới về hình thức và khám phá về nội dung”. Văn học không quá đòi hỏi sự cầu kỳ, văn học đòi hỏi sự sáng tạo. Mỗi nhà văn đến với nghệ thuật muốn ghi dấu ấn trong nền văn chương thì cần phải có phong cách, quan điểm sáng tác riêng không lẫn với bất kỳ người nào khác, “Không có tiếng nói riêng không mang lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫn theo đường mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết” (Lêônit lêônốp). Người nghệ sĩ không được dẫm theo dấu chân của người khác, phải là người biết “khơi những nguồn chưa ai khơi”, hoặc đổi mới những điều mà “ ai cũng biết cả rồi”. Nghệ thuật chân chính đòi hỏi những tiêu chí cao như vậy. Bởi lẽ nếu tác phẩm nghệ thuật không có sức sáng tạo, nhà văn không tạo ra phong cách con đường riêng của mình thì văn chương sẽ chẳng có ý nghĩa gì với cuộc đời. Tạo ra phong cách riêng, con đường riêng, sáng tác riêng của mình người nghệ sĩ sẽ tạo ra sự sáng tạo trong tác phẩm thể hiện được khả năng cá nhân và gây được ấn tượng trong lòng người đọc
  • Hướng con người đến cái đẹp, cái thiện, cái cao cả (chân-thiện-mĩ): Nhà văn phải là “ những nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Bàn về thiên chức của nhà văn và nhiệm vụ của văn chương Lã Nguyên đã có ý kiến: “ mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Nhưng tư duy nghệ thuật dù có đổi

mới đến đâu thì cũng không thể vượt ra ngoài các quy luật của chân, thiện, mỹ quy luật nhân bản. Nhà văn chân chính có sứ mệnh khởi nguồn cho dòng sông, phân lọc đổ ra đại dương nhân bản mênh mông. Kể cả khi phản ánh cái xấu xa, đê tiện thì vẫn là để hướng con người đến cái đẹp, cái thiện. => Nhà văn phải là người có ý thức trách nhiệm với cuộc đời, có cái nhìn đúng về cuộc sống con người và sứ mệnh nghệ thuật để từ đó bằng tài năng và tâm huyết sang tạo được những tác phẩm có ích cho đời và bền vững với thời gian. 1.2. Tư chất nghệ sĩ:

  • Giàu tình cảm: Tình cảm ở người nghệ sĩ ấy chính là trái tim mãnh liệt và nồng cháy của mình trước cuộc sống và cả trong sáng tác. Bởi tình cảm trong nhà văn như yêu, ghét, vui, thương mến hay căm giận, hờn dỗi đều đến độ mãnh liệt. “Gặp cái gì hay và đáng yêu thì họ ôm choàng lấy, nếu gặp điều đáng giận thì họ sẽ bác bỏ…Phải kịch liệt công kích cái sai như đã từng nhiệt liệt ủng hộ cái đúng, ôm chặt người yêu như thế nào thì nghiến chặt kẻ thù như thế” (Lỗ Tấn). Và nhà văn là người sáng tạo ra cái đẹp nghệ thuật cho con người và cuộc đời nên người nghệ sĩ ấy không thể thiếu được một trái tim mãnh liệt, phong phú và sâu sắc.
    • Sự mẫn cảm đặc biệt:
      • Con người ai cũng có yêu, ghét, vui buồn… nhưng nhà văn phải là người nhạy cảm, dễ xúc động. Vì trái tim người nghệ sĩ không rung động thì sẽ không thể thăng hoa cảm xúc để cho ra đời những tác phẩm hấp dẫn và ý nghĩa “Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt để thể hiện sự nồng cháy trong lòng” (Sóng Hồng)
    • Tâm hồn nhạy cảm, sự mẫn cảm đặc biệt với đời như vui buồn hay trăn trở với những điều người khác cho là bình thường có thể gạt bỏ đi một cách dễ dàng, đó cũng là một trong những cách thể hiện tình cảm ở người nghệ sĩ.
    • Tâm hồn phong phú: Người nghệ sĩ là người tạo ra cái đẹp cho cuộc đời, vì thế chắc chắn sẽ không thể thiếu đi một tâm hồn phong phú. Người nghệ sĩ có một tâm phong phú sẽ là người luôn biết tự tìm hiểu, khám phá, suy tưởng.... Với một tâm hồn phong phú, người nghệ sĩ có thể hóa thân thành người trong cuộc, có thể nói lên kể cả những tiếng nói sâu kín nhất, “sản phẩm mà họ tạo ra sẽ mãi là những kiệt tác văn chương, đi sâu vào lòng độc giả.
    • Nhân cách đẹp: Bản chất của văn học là hướng con người tới vẻ đẹp chân thiện mĩ, Những đạo lí đẹp, bồi dưỡng cho tâm hồn con người những ánh sáng thiện tâm lấp lánh Vẻ đẹp của trí tuệ và ấm áp tình người. Vì thế nhà văn mỗi khi cầm bút, tâm thế cũng Phải vằng vặc sao khuê mới có thể nhả chữ châu ngọc cho đời. Nói rõ hơn chính là muốn trở thành nhà văn phải là những người có nhân cách. Người nghệ sĩ khi viết một tác phẩm phải trung thành với sự thật. Cuộc sống có như thế nào thì nói như thế ấy, phải trung thực với cuộc sống chứ không phải trung thành với
  • Có thể ví quá trình sáng tạo của nhà văn như hành trình của bầy ong tạo ra mật ngọt. Từ cuộc đời muối mặn nhà văn chắt lọc các vấn đề từ hiện thực đời sống để đưa vào trang sách bằng tất cả sự mẫn cảm đặc biệt của mình 2.2. Cảm hứng sáng tác Có thể ví cảm hứng như là chất men của sự sáng tạo. Trước cuộc sống với những vận động phức tạp nhà văn luôn có những cảm nhận, suy nghĩ, tình cảm, rung động. Bằng sự mẫn cảm đặc biệt đến một lúc nào đó tâm hồn nhà văn chứa đầy cảm xúc mãnh liệt và có nhu cầu giải phóng nội tâm. Nhà văn tìm đến tác phẩm văn chương, kí gửi những tâm tư, tình cảm đến người đời để tìm sự đồng điệu. => Cảm hứng sáng tác chỉ thực sự xuất hiện khi tình cảm, cảm xúc đạt đến mãnh liệt, cao độ, tràn đầy đòi hỏi phải được biểu hiện qua nội dung và hình thức nghệ thuật. Cảm hứng sáng tạo là một sự thôi thúc, tạo đà cho nhà văn cầm bút viết. Cảm hứng chính là nguồn gốc trực tiếp của sang tạo nghệ thuật. 2.3. Hình thành ý đồ sáng tác và viết thành tác phẩm a. Đây là quá trình: - Tìm đến nội dung: Chủ đề, đề tài, tư tưởng - Tìm đến hình thức nghệ thuật: Thể loại, ngôn từ, kết cấu, hình ảnh… => Trải qua quá trình sáng tạo, nhào nặn của người nghệ sĩ, hiện thực đời sống không còn là hiện thực đơn thuần nữa mà nó là hiện thực được phản ánh qua cách nhìn, lăng kính và tài năng của nhà văn. Qua sự sáng tạo của nhà văn, tác phẩm văn học trở thành chất men say, trở thành cái đẹp khiến trải qua thăng trầm vẫn lôi cuốn bạn đọc, hướng con người đến chân- thiện-mĩ (Cái đẹp ở đây được hiểu bao gồm cả nội dung và hình thức nghệ thuật).
    • Với tác phẩm văn học, nhà văn đã bất tử hóa hiện thực để giữ hộ cho con người “Những mùa hoa đã tàn phai tháng ngày”. Đó chính là hiện thực cuộc sống, lẽ sống, tư tưởng, thông điệp thẩm mĩ mà nhà văn muốn lưu lại cho đời và chuyển tải cho người đọc. Như vậy, quá trình sáng tạo tác phẩm văn học không chỉ tuân thủ quy luật phản ánh hiện thực mà còn phù hợp với chức năng của văn học. b. Các giai đoạn sáng tác: Đối với một nhà văn chuyên nghiệp thì có thể nói suốt cuộc đời là một quá trình chuẩn bị sáng tạo và sáng tác không ngừng. Trong quá trình sáng tác của các nhà văn cô thể chia thành các khâu: hình thành ý đồ, thiết lập sơ đồ, viết và sửa chữa. Các khâu này không hoàn toàn phấn biệt một cách rạch ròi, mà có thể xen kẽ, gối đầu nhau và trong quá trình sáng tác có thể thêm hoặc bớt, tuỳ theo thể loại văn học khác nhau. Giai đoạn hình thành đồ sáng tác:
  • Trước hết, ý đồ được khơi nguồn từ những niềm xúc động trực tiếp trước một con Người hay sự kiện mang ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống. Tồ Hoài có ý định viết “Truyện Tây Bắc” do xúc động trước cảnh vợ chồng chị Lý tiễn mình về trong chuyến đi thực tế ở Tây Bắc năm 1952.
  • Ý đồ sáng tác có thể bắt nguồn trực tiếp từ những nhiệm vụ giáo dục và đấu tranh Tư tưởng. Nhiệm vụ chính trị tư tưởng được tác giả đặt ra chủ động có ý thức như là một kế hoạch đã vạch sẵn và không bao giờ là những ý niệm, tín điều trừu tượng... Ý đồ sáng tác

cũng có thể bắt nguồn từ một câu chuyện dân gian, một lí thuyết khoa.học, một hồi tưởng hay liên tưởng nào đó trong cuộc đời. Bất kì ý đồ nào cũng liên quan đến quan niệm và sự hiểu biết về cuộc đời, lòng quan tâm, ước mơ vô lí tưởng của nhà văn.

  • Ý đồ sáng tác của các nhà văn không đứng yên mà có thể thay đổi và phát triển, Nhất là trong những tác phẩm tự sự bởi nhà văn phải đối diện với nhiều biến cố trong Cuộc sống hằng ngày, vây nên trong thời gian khá dài, nhà văn mới có thể cho ra đời Một tác phẩm hoàn chỉnh và chính xác nhất. Giai đoạn chuẩn bị:
  • Từ giai đoạn hình.thành ý đồ đến giai đoạn viết thành một tác phẩm hoàn chỉnh là Cả một quá trình hoàn thiện dẫn qua khâu chuẩn bị rất công phu và đầy đủ về nhiều mặt. Chuẩn bị càng kĩ bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Sự chuẩn bị trong thơ trữ tình không hẳn đã nghiêng về thu thập tài liệu mà là sự chuẩn bị về suy nghĩ và cảm xúc. Quá trình này diễn ra âm thầm trong tâm trí của các nhà văn và đến khi cảm xúc đã thật đầy đủ thì những vần thơ sẽ hoàn thành.
  • Sự chuẩn bị trong sáng tác thơ trữ tình có khi xảy ra rất nhanh nhưng không hiếm Những bài thơ phải thai nghén trong hàng chục năm trời. Chẳng hạn, bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương, Huy Cận định viết từ năm 1940. Khi còn học ở trường cao đẳng canh nông, ông muốn viết về cuộc đời và con người trầm luân thể hiện qua những pho tượng. Sau Cách mạng tháng Tám, ông nhiều lần đến chùa Tây Phương để nuôi dần độ chín của cảm xúc và suy nghĩ. Mãi đến 1960, với chỗ đứng và tầm nhìn mới, ông đãphát hiện thêm nhiều vấn đế về tâm hồn, tình cảm của nhân dân ta trước đây gửi gắm qua những pho tượng và ông đã hoàn thành tác phẩm vào dịp đó.
  • Trong văn xuôi có khác hơn so với thơ trữ tình. Bước đầu tiên của giai đoạn chuẩn Bị, nhà văn phải thú thập tài liệu, phải nghiên cứu mảng hiện thực mà mình định tái hiện, tìm hiểu, các nguồn tư liệu lịch sử, các hồi kí, đi thực tế ở những nơi xảy ra sự kiện đó. Giai đoạn lập sơ đồ:
  • Quá trình này nhằm hệ thống hóa những điếu đã quan sát và thu thập được những ấn tượng, hình ảnh và cảm nghĩ vào trong một chỉnh thể, nó là “phương án tác chiến”, là bản phác thảo cho nhà văn trước khi viết, là con đường tìm những phương án tối ưu về mặt thẩm mĩ. Đây là một bước khá phức tạp vì nhà văn xử lí hàng loạt mối quan hệ: quan hệ giữa bộ phận và toàn thể, giữa các phần, chương, đoạn, giữa các tuyến nhân vật trong quá trình phát triển. Cũng có một số nhà văn không coi trọng việc lập sơ đồ. Tố Hữu nói: “Tôi làm thơ không có dàn bài. Tôi không biết được bài thơ đến bao giờ thì hết, không biết bao giờ nó dừng lại. Tôi nghĩ sẽ có lúc làm một bài thơ nào đó cũng cầncó những ý lớn làm mốc, nhưng không thể có một dàn bài”. Tuy Tố Hữu nói thế nhưng những nhà văn phải chú ý cần có những ý lớn làm mốc. Giai đoạn viết:
  • Giai đoạn viết là khâu quan trọng nhất của quá trình sáng tác. Đó là một giai đoạn Khó khăn phức tạp, một quá trình lao động căng thẳng, tràn ngập niềm vui và nỗi buồn, đầy cảm hứng và lo âu, băn khoăn và suy tính.
  • Nếu coi người viết tiểu thuyết là một “hóa công” nhỏ thì thế giới nghệ thuật do người nghệ sĩ ấy sáng tạo ra xứng đáng là một thế giới thu nhỏ. Bởi vì , tiểu thuyết là một loại hình tự sự phản ánh thế giới khách quan trên bình diện rộng. Thế giới của tiểu thuyết càng phong phú , càng chân thực thì tài năng của nhà văn càng rõ nét.
  • Lời nhận định của NĐT đã khái quát một quy luật sáng tạo nghệ thuật : người viết tiểu thuyết từ những quan sát , trải nghiệm thực tế , đưa vào tác phẩm của mình mô hình thu nhỏ của thế giới khách quan. Đó chính là yêu cầu sáng tạo nghệ thuật chân chính. 2.Chứng minh và bình luận a. Khái quát về tiểu thuyết Số đỏ và tài năng của một bậc “hóa công” Vũ Trọng Phụng
  • Số đỏ là một tác phẩm xuất sắc của nền văn học hiện thực 1930- 194 5 , tiêu biểu cho tài năng nghệ thuật của tiểu thuyết gia Vũ Trọng Phụng.
  • Tiểu thuyết Số đỏ là một mô hình thu nhỏ đầy đủ , sống động về thực trạng đời sống xã hội thành thị tư sản Việt Nam đầu thế kỉ XX với tất cả những mặt lố lăng , kệch cỡm : nhân vật của tác phẩm là tầng lớp tư sản thành thị với lối sống giả dối , suy đồi ( một xã hội chó đểu , vô nghĩa lí.
  • Với Số đỏ , VTP đã chứng tỏ bàn tay của một đấng “hóa công” khi xây dựng thế giới tiểu thuyết đồ sộ với hơn 30 nhân vật , vô số hành động , các mâu thuẫn trào phúng được khai thác triệt để để phục vụ mục đích phê phán , tố cáo cái thực trạng xã hội thối nát , giả dối ấy . b.Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia , trích chương XV của tiểu thuyết , giống như một phân cảnh nhỏ trong chuỗi dài tấn hài kịch mà VTP xây dựng.
  • Đoạn trích là sân khấu hài kịch mà tất cả các nhân vật đều có đất diễn , thậm chí diễn rất đạt vai trò của mình. Đám tang cụ Cố tổ là cơ hội phô diễn lố bịch của đám con cháu , bạn bè , là nơi diễn ra cuộc doanh thương bẩn thỉu của đám người hám danh lợi .(chứng minh màn hài kịch của cô Tuyết , cậu Tú Tân , nhất là cuộc mua bán của ông Phán mọc sừng với Xuân Tóc đỏ …)
  • Đoạn trích chỉ nằm trong một phần của toàn bộ chương tiểu thuyết nhưng có khả năng khái quát , tổng hợp hiện thực ở quy mô lớn : cả xã hội thành thị đều có mặt đầy đủ ở đám tang với đầy đủ hạng người , dáng vẻ (chứng minh hình ảnh những người trong đám tang : ngoài những người trong gia đình cụ cố Hồng còn có đủ đám giai thanh gái lịch , những vị tai to mặt lớn với đủ loại huy chương , huân chương nhưng là những kẻ đạo đức giả , vô văn hóa…)
  • Những chân dung trào phúng mà VTP tạo ra rất riêng nhưng vẫn có tầm phổ quát (chứng minh qua nhân vật cụ cố Hồng , Xuân tóc đỏ và ông Phán mọc sừng…)
  • Những yếu tố nghệ thuật đặc sắc : nghệ thuật trào phúng bậc thầy , bút pháp cường điệu , phóng đại , giọng điệu linh hoạt , thủ pháp điện ảnh … 3.Đánh giá
  • VTP đã đóng góp lớn lao vào việc hình thành và phát triển nền tiểu thuyết hiện đại.Ông từng phát biểu tiểu thuyết phải là “sự thực ở đời”.
  • Từ lời bàn của NĐT , đặt ra yêu cầu đối với người viết tiểu thuyết và bài học tiếp nhận vẻ đẹp của thế giới nghệ thuật được tạo lập trong tiểu thuyết : không sao chép hiện thực ,

phản ánh cuộc sống một chiều mà người nghệ sĩ phải luôn trăn trở , không ngừng sáng tạo , đổi mới để hiện thực cuộc sống tuy rộng lớn , bao quát nhưng không trùng lặp. Đề số 2: Bàn về lao động nghệ thuật của nhà văn, có ý kiến cho rằng: Nghệ sĩ, hơn bất cứ người nào, chính là kẻ mang trong mình thiên chức sáng tạo, liên tục sáng tạo. Điều đó cũng có nghĩa rằng, một cách tiên nghiệm, nghệ sĩ là kẻ phủ định, luôn luôn phủ định những cái đã có của tha nhân và thậm chí của chính mình. Từ những trải nghiệm văn học của bản thân, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.

  1. Giải thích ý kiến
  • “thiên chức sáng tạo”: Chức năng cao cả của người nghệ sĩ là sáng tạo nghệ thuật.
  • “phủ định những cái đã có của tha nhân và thậm chí của chính mình”: Xoá bỏ, không chấp nhận những cái đã có của người khác và của chính mình. => Câu nói đề cao thiên chức và phương thức sáng tạo của người nghệ sĩ trong quá trình lao động nghệ thuật.
  1. Lí giải
  • Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo nên lao động nghệ thuật phải không ngừng sáng tạo.
  • Chỉ khi phủ định những giá trị đã có của người khác và nhất là của chính mình thì nghệ sĩ mới tạo ra những giá trị thẩm mỹ mới.
  • Sáng tạo là yếu tố quyết định sự sống còn của nghệ thuật.
  • Sáng tạo nghệ thuật biểu hiện ở cả hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật mang đậm cá tính, phong cách của người nghệ sĩ.
  1. Chứng minh Học sinh chọn những dẫn chứng tiêu biểu và phân tích, khái quát hợp lý để làm sáng tỏ quan điểm.
  2. Bình luận
  • Về ý kiến
  • Khẳng định vai trò, ý nghĩa của sáng tạo nghệ thuật đối với thực tiễn lao động và thưởng thức nghệ thuật.
  • Sáng tạo là quá trình phủ định nhưng không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn cái đã có mà phải là sự kế thừa và cách tân.
  • Cái mới được tạo ra phải chứa đựng những giá trị đích thực thì mới được ghi nhận là sáng tạo nghệ thuật.
  • Về tác giả, tác phẩm
  • Với người sáng tác và tiếp nhận
  • Ý kiến nhắc nhở mỗi người nghệ sĩ về trách nhiệm của người cầm bút trong quá trình sáng tạo. Người nghệ sĩ cần phải sống sâu sắc với những buồn vui, đau khổ, hạnh phúc của con người thì mới mong tìm được tiếng lòng tri âm tri kỉ của bạn đọc.
  • Đồng thời, người đọc cần phát huy vai trò chủ động, tích cực của mình trong việc tiếp nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm văn chương, từ đó có thể đồng cảm sâu sắc với tác giả, để thấy mỗi tác phẩm văn học như là tiếng ca cất lên từ lòng mình, như là của mình vậy (Tố Hữu). Đề số 4 : Bình luận ý kiến sau đây của Nguyễn Tuân : Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo. Không nên ăn bám vào ngôn ngữ của người khác .Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay (…). Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy , nhưng sử dụng nó sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Dùng chữ như đánh cờ tướng , chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt là văn cứng đơ, thấp khớp I. Mở bài Ngôn ngữ là đặc trưng , là chất liệu cơ bản , là phương tiện biểu đạt của văn chương. Xét ngôn ngữ của một tác phẩm có thể thấy được tài năng của nhà văn. Các nhà văn có tài thường có ý thức khi sử dụng ngôn ngữ. Nguyễn Tuân là một người như thế. Bởi thế, khi nói chuyện với các nhà văn trẻ , NT đã khẳng định : Ở đâu có lao động …cứng đơ, thấp khớp. II.Thân bài
  1. Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo. Không nên ăn bám vào ngôn ngữ của người khác.
    • Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ riêng. Nhưng không phải con người vừa sinh ra đã có tất cả mà phải trải qua hàng nghìn , hàng triệu năm vốn ngôn ngữ của con ngươi mới được như ngày nay.
    • Làm cho ngôn ngữ của dân tộc đó trở nên trong sáng , phong phú hơn còn tuỳ thuộc vào các nhà văn , nhà thơ .Họ như những con ong cần mẫn hút mật cho đời. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía giá trị cao quý của lao động trong thi ca: Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ Để thu về một chữ mà thôi Những chữ ấy làm cho rung động Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.
    • Các nhà văn không phải ngẫu nhiên có vốn ngôn ngữ như họ đã có, mà họ phải phải lăn trải vào đời, phải lao động , phải học tập , tích luỹ từ ngôn ngữ nhân dân. Ngôn ngữ văn học tuy so với ngôn ngữ nhân dân không phong phú bằng nhưng xét về mặt biểu cảm hay để thể hiện một điều gì đó thì nó lại đạt mức độ tinh tế và sắc nét hơn .Tuy nhiên, ngôn ngữ văn học phải dựa vào ngôn ngữ nhân dân thì mới có sức sống. Chẳng thế mà Nguyễn Thi để cho chị Ut Tịch nói : “Còn cái lai quần cũng đánh” nghe dân dã làm sao! Hay trong tác

phẩm Mùa lạc của Nguyễn Khải, ngôn ngữ của chị Đào là ngôn ngữ rất quen thuộc trong nhân dân nhưng rất giàu tính biểu cảm(đoạn chị Đào suy nghĩ về cuộc đời, số phận mình)

  • Học tập ngôn ngữ nhân dân nhưng “Nghệ thuật không phải là sự sao chép tự nhiên”, tất nhiên là về mọi mặt, kể cả ngôn ngữ. Mỗi nhà văn phải có một phong cách, có một giọng văn riêng .Cũng như nhà văn Liên Xô Tuốc-ghê-nhép nói : “ Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác”.
  • Chứng minh bằng lao động nghệ thuật và tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân, Nguyễn Du, Xuân Diệu, Tố Hữu…
  1. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay (…). Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy, nhưng sử dụng nó sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt là văn cứng đơ, thấp khớp.
  • Nhà văn tài năng phải có vốn ngôn ngữ phong phú của chính tâm hồn mình. Ngôn ngữ nhà văn phong phú sẽ làm cho văn giàu hình tượng, giàu nhạc tính. Nhưng điều quan trọng hơn cả là phải biết lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ thích hợp vì như Nguyễn Tuân đã khẳng định: “Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy, nhưng sử dụng nó sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt là văn cứng đơ, thấp khớp”.
  • Bởi vì ngôn ngữ văn học trước hết phải chính xác.Tuy nhiên, ngôn ngữ văn học chính xác nhưng không cứng nhắc mà uyển chuyển, mềm mại. Bởi vì thơ văn sinh trưởng từ tâm hồn con người nên sự chính xác của ngôn ngữ văn học có sự khác biệt với sự chính xác của khoa học. Chính vì thế mà Nguyễn Du viết : Cỏ non xanh dợn chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Có bản chép : Cỏ non xanh rợn chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Hoặc : Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Nếu dùng chữ tận thì trước mắt ta chỉ là thảm cỏ xanh mênh mông , còn dùng chữ rợn thì đã có sự sống bên trong của thảm cỏ xanh ấy. Nhưng chữ dợn chính xác hơn cả vì thảm cỏ không chỉ có sức sống mà dường như sức sống ấy đang sôi động , nhảy múa trước mắt ta.
  • Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ có khả năng diễn đạt tinh tế, biểu cảm và giàu hình ảnh (dẫn chứng đoạn văn mở đầu Hai đứa trẻ của Thạch Lam và đoạn văn tả cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – phân tích khả năng miêu tả tinh tế, biểu cảm , giàu hình ảnh ). Hay người Việt Nam yêu truyện Kiều không thể quên được những câu thơ tả cảnh mùa thu của Nguyễn Du với âm hưởng ca dao dịu dàng, man mác: Long lanh đáy nước in trời
  • Mỗi bài thơ là kết quả của quá trình lao động nghệ thuật đầy khổ hạnh và nghiêm túc, tìm tòi và sáng tạo. Vì vậy, tác phẩm chính là căn cứ để đánh giá tài năng và tâm huyết của nhà thơ.
  1. Phân tích, chứng minh Thí sinh có thể chọn một số bài thơ (từ 02 bài trở lên – tốt nhất là bao gồm cả thơ Việt Nam và thơ nước ngoài) tiêu biểu, phù hợp để minh chứng cho yêu cầu của đề như: Cảnh Ngày hè của Nguyễn Trãi, Độc tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du, Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thu Hứng của Đỗ Phủ… để làm sáng tỏ vai trò của tác phẩm trong việc thể hiện cuộc đời và giá trị của nhà thơ. Sự phân tích và cảm nhận tác phẩm thơ cần làm rõ các định hướng cơ bản sau:
  • Nhận ra bóng dáng cuộc đời, con người nhà thơ in dấu trong tác phẩm.
  • Hiểu và đánh giá được giá trị của nhà thơ được thể trong tác phẩm qua các phương diện như:
  • Chiều sâu tâm hồn, tầm vóc tư tưởng.
  • Tài năng nghệ thuật.
  1. Bình luận
  • Ý kiến của nhà thơ người Đức H. Hai- nơ là một quan niệm xác đáng khi khẳng định tác phẩm chính là xuất phát điểm khoa học và khách quan để thấu hiểu cuộc đời và đánh giá giá trị của người nhà thơ. Điều này không chỉ đúng trong lĩnh vực thơ ca mà còn đúng với các sáng tác văn học nói chung.
  • Nhà thơ nói riêng, người nghệ sĩ nói chung muốn có chỗ đứng, muốn thể hiện và khẳng định được mình phải sáng tác nên những tác phẩm có giá trị, in đậm dấu ấn cá nhân.
  • Ý kiến cũng là một định hướng đầy ý nghĩa cho việc tiếp nhận thơ và đồng cảm, tri âm với nhà thơ. Đề số 6: Bàn về lao động nghệ thuật của nhà văn, Mác-xen Pruxt cho rằng: « Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới. Anh/chị hãy trình bày ý kiến của mình về nhận định trên?
  1. Giải thích vấn đề
  • Cuộc thám hiểm thực sự: quá trình lao động nghệ thuật của nhà văn để sáng tạo nên tác phẩm đích thực.
  • Vùng đất mới: hiện thực đời sống chưa được khám phá
  • Đôi mắt mới: cái nhìn và cách cảm thụ đời sống mới mẻ
  • Hàm ý câu nói: Trong quá trình sáng tạo, điều cốt yếu là nhà văn phải có cái nhìn và cách cảm thụ độc đáo, giàu tính phát hiện về con người và cuộc đời.
  1. Lí giải (HS dựa vào tri thức lí luận về đặc trưng phản ánh của văn học, phong cách nghệ thuật của nhà văn, tư chất nghệ sĩ ... để triển khai luận điểm).
    • Trong sáng tác văn học, đề tài mới chưa phải là cái quyết định giá trị của một tác phẩm.
  • Đề tài chính là phạm vi hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm. Với một đề tài mới nhưng nhà văn chỉ sao chép nguyên xi theo lối chụp ảnh thì không mang lại giá trị đích thực cho tác phẩm.
    • Giá trị tác phẩm và phong cách nghệ thuật của nhà văn được quyết định bởi cái nhìn và cách cảm thụ đời sống của người cầm bút.
  • Dù đề tài cũ nhưng bằng cái nhìn độc đáo, giàu tính phát hiện và khám phá, nhà văn có thể thấu suốt bản chất đời sống, mang lại cho tác phẩm giá trị tư tưởng sâu sắc.
  1. Phân tích, chứng minh HS chọn dẫn chứng và phân tích:
  • Phong trào Thơ mới đã hướng đến đề tài mới là thế giới của cái tôi cá nhân cá thể song không phải tác phẩm nào cũng có giá trị...). (Vội vàng là kết quả của cái nhìn tươi mới, của cặp mắt “xanh non, biếc rờn” trước vẻ đẹp mùa xuân, đã bày ra trước mắt người đọc một thiên đường mặt đất, một bữa tiệc trần gian. Hơn nữa, với nhận thức mới mẻ về thời gian tuyến tính, nhà thơ đã đề xuất một quan niệm sống tích cực...)
  • Trong văn học HTPP: Chí Phèo, không chỉ là nỗi khổ vật chất mà đau đớn hơn là bi kịch tinh thần, nỗi đau bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà văn còn phát hiện được đốm sáng nhân tính ẩn chứa bên trong cái lốt quỷ dữ của Chí Phèo...
  1. Bình luận
  • Nếu đã có cái nhìn giàu tính khám phá, phát hiện lại tiếp cận với một đề tài mới mẻ thì sức sáng tạo của nhà văn và giá trị độc đáo của tác phẩm càng cao. Vì thế, coi trọng vai trò quyết định của “đôi mắt mới” nhưng cũng không nên phủ nhận ý nghĩa của “vùng đất mới” trong thực tiễn sáng tác.
  • Để có cái nhìn và cách cảm thụ độc đáo, nhà văn cần trau dồi tài năng (sự tinh tế, sắc sảo...), bồi dưỡng tâm hồn (tấm lòng, tình cảm đẹp với con người và cuộc đời...) và xác lập một tư tưởng, quan điểm đúng đắn, tiến bộ. Đề số 7: Trong bài Truyện ngắn đầu tiên, K. Pauxtopxki cho rằng: Chỉ có người nào nói được với mọi người những điều mới mẻ, có ý nghĩa và thú vị, nhìn thấy những gì mà người khác không nhận ra, người đó mới có thể là nhà văn. (“Bông hồng vàng và bình minh mưa”, NXB văn học, 1999, tr.56) Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua một tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ văn 11.
  1. Giải thích

Đề số 8: Bàn về nghề văn, có người đã mượn một câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Nhưng có người lại cho rằng : “Văn chương trước hết phải là văn chương”. Anh /chị hãy bình luận ý kiến trên. I. Mở bài

  • Bản chất của nghệ thuật là sáng tác ( người nghệ sĩ phải có tâm huyết và tài năng
  • Giới thiệu ý kiến đề bài. II. Thân bài 1.Giải thích
  • “Tâm” là tâm hồn , tình cảm , tấm lòng của người nghệ sĩ đối với con người và cuộc đời.
  • Vì sao phải có cái tâm? cái tâm là yếu tố trước hết của nghệ thuật , là điều không thể thiếu trong tác phẩm của người nghệ sĩ. Không có một tấm lòng trước cuộc đời người nghệ sĩ sẽ không có những rung cảm chân thật , mãnh liệt. Người đọc trân trọng trí tuệ nhưng trước những trái tim cao cả thì lại càng trân trọng , yêu quý hơn. Có người đã nói : “Trước một trí tuệ vĩ đại tôi cúi đầu , trước một trái tim vĩ đại tôi quỳ gối”.
  • “Tài” là tài năng của người nghệ sĩ. Cái tài của người nghệ sĩ một phần do thiên phú , một phần do quá trình rèn luyện , trau dồi mà có.
  • Trong văn chương , chữ tâm chiếm một vai trò rất lớn nhưng không thể phủ định , quên đi tài năng của người nghệ sĩ. Không có tài năng , không thể gọi đó là văn chương. Phải có cả hai yếu tố “tâm” và “tài” thì nhà văn mới tạo nên một tác phẩm thật sự có giá trị. (Ý kiến “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” là đề cao chữ tâm nhưng vẫn khẳng định vị trí tài năng , khẳng định cái thiên phú của người cầm bút. Có thể nói ý kiến này đã bao quát cả quá trình sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật , đặt ra yêu cầu lớn với người nghệ sĩ , phải kết hợp giữa cái tài năng với cái tâm huyết của mình.
  • Nhưng khi đề cao cái tâm lại cần chú ý đến quan niệm cho rằng : “Văn chương trước là văn chương”. Quan niệm này có đối lập với quan niệm “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” của Nguyễn Du hay không? Một bên đề cao cái tâm , cái lòng của người nghệ sĩ ; một bên lại đặt ra “Văn chương trước hết là văn chương”. Nếu chú ý đến hai chữ “trước hết” thì ý kiến này muốn chỉ muốn khẳng định tác phẩm văn học trước hết phải có chất nghệ thuật. Một tác phẩm nghệ thuật mà không có chất văn chương thì không còn là tác phẩm văn học nữa rồi mà nó sẽ là một thứ thuyết giáo , một sự thật lịch sử , là một bản sao chép cuộc đời…
  • Như vậy , ý kiến “Văn chương trước hết là văn chương” không phải là sai nhưng chưa đầy đủ. Văn chương phải đặt song hành tài năng và tâm huyết của người sáng tạo nghệ thuật. Nếu tác phẩm chỉ có “văn chương” mà không có tấm lòng thì chỉ như một bông hoa đẹp mà vô hương .Phải có cái tâm trong sáng cao đẹp thì tài năng mới tỏa sáng. Đọc một câu văn , ta ngạc nhiên khâm phục trước sự sử dụng câu chữ tài tình của tác giả ; đọc một cuốn truyện ta cảm thấy thích thú trước sự sắp đặt những tình tiết bất ngờ của nhà văn ...Và đằng sau những hấp dẫn về văn chương ấy ta nhận ra được tấm lòng thiết tha của tác giả thì câu chuyện ấy sẽ đọng lại trong tâm trí ta sâu sắc biết bao !. Như vậy “Văn chương

trước hết là văn chương” nên hiểu theo một cách thật đầy đủ là bao hàm cả tài năng và tâm huyết của người cầm bút. Thiếu một trong hai yếu tố ấy thì “văn chương” đâu còn là văn chương nữa.

  1. Lí giải và chứng minh
    • Không thể coi “Văn chương trước hết là văn chương” mà cái “trước hết” ấy phải là tấm lòng, tư tưởng của người nghệ sĩ. Nguyễn Tuân cũng từng quan niệm: “Văn chương trước hết là văn chương , nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật”, nhưng cũng chính ông , hơn ai hết đã suốt đời cống hiến cho một nền nghệ thuật vì con người. Mỗi tác phẩm của ông của ông đều hướng con người tới “thiên lương”.
    • Tài năng và tâm huyết , là hai yếu tố không thể tách rời trong sáng tạo nghệ thuật. Cái tài nhờ cái tâm để “cháy lên”. Cái tâm nhờ cái tài mà “tỏa sáng”.Đưa hết tâm linh vào sáng tác , suy nghĩ , dằn vặt , trăn trở cho những vấn đề cuộc sống , người nghệ sĩ sẽ có được những giây phút “xuất thần” , tài năng sẽ bừng sáng. Lec-môn-tốp nói : ‘Có những đêm không ngủ , mắt rực cháy và thổn thức , lòng tràn ngập nhớ nhung …khi đó tôi viết”. Nhà thơ Tố Hữu : “Mỗi khi có cái gì chất chứa trong lòng , không nói ra , không chịu được thì lại thấy cần làm thơ”
    • Nhà văn phải là người “đi tìm cái hạt ngọc ẩn dấu sâu trong tâm hồn con người”(Nguyễn Minh Châu). Quá trình “đi tìm” ấy không đơn giản, người nghệ sĩ ngoài cái tâm ra, phải có tài năng nắm bắt, khám phá, phải nhận ra viên ngọc quý lấp lánh bên trong. Cái tài đi liền với cái tâm. Anh không thể trở thành nhà văn nếu anh không có tài năng , nhưng để trở thành một nhà văn vĩ đại thì không chỉ cần có tài năng mà nhất thiết phải có một cái tâm cao quý. Viên Mai nói : “Tài gia tình chi phát, tài thịnh tình tắc thâm” (tài là ở tình phát ra , tài cao ắt tình sâu).
    1. Phân tích, chứng minh
      • Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng tài năng xuất sắc nhưng cũng chính là bằng “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” +Tài năng qua miêu tả tâm trạng , cảnh vật , ngôn ngữ …
  • Tấm lòng thể hiện ở chỗ lên án , tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp nhân phẩm con người , đau nỗi đau của người phụ nữ … +Nam Cao là nhà văn có cái tài và cái tâm hết sức nhuần nhuyễn. Mỗi từ , mỗi chữ, mỗi chi tiết , mỗi cốt truyện… của ông , chỗ nào cũng thấm nhuần tình cảm , tấm lòng của nhà văn.
    • Chính tài năng và tâm huyết ấy đã giúp Nam Cao dựng lên một Đời thừa , một Trăng sáng , một Sống mòn với những cuộc sống “áo cơm ghì sát đất” để người đọc cùng đau đớn nỗi đau của nhân vật , dằn vặt , trăn trở trước mỗi số phận , mỗi cuộc đời …(phân tích sự dằn vặt của Hộ )(Đó chính là cái tâm luôn giữ vững niềm tin vào con người của Nam Cao đã khiến nhà văn hiểu sâu xa cuộc vật lộn giữa cái thiện và cái ác, giữa lí trí cao cả và dục vọng thấp hèn của mỗi con người , nhận ra khát vọng hướng về ánh sáng của con người.
    • Trong truyện ngắn Chí Phèo khi dựng lên hình ảnh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, Nam Cao vẫn phát hiện ra ánh sáng lương tri còn le lói trong con người Chí , để có lúc nó bùng cháy lên dữ dội , mãnh liệt “Ai cho tao lương thiện?’, “Làm thế nào …trên mặt này?”…Câu hỏi đau đớn ,nhức nhối ấy của Chí , phải chăng cũng chính là câu hỏi xoáy vào lòng NC về số phận của những con người.

Nhau có thể có những nét chung nào đó về tư duy nghệ thuật và kĩ thuật biểu hiện. Dù mỗi người có một “gương mặt” riêng, nhưng các nhà văn cái diện mạo chung ấy trong sáng tác của từng tác giả: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”.

  1. Những biểu hiện của phong cách văn học Phong cách văn học biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá, ở giọng điệu riêng biệt của tác giả. Ví dụ cái nhìn tài hoa, có khả năng khám phá mọi đối tượng ở phương diện thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Qua cái nhìn ấy, thiên nhiên hiện lên như công trình mĩ thuật của tạo hóa, con người hiện lên với tư chất tài hoa, nghệ sĩ. Sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm cũng in đậm dấu ấn riêng của tác Giả, từ việc lựa chọn đề tài, xác định chủ đề, thể hiện hình ảnh, nhân vật cho đến xác lập Tứ thơ, triển khai cốt truyện,... Thạch Lam hướng ngòi bút tới cuộc sống và tâm hồn Những con người “nhỏ bé”, Vũ Trọng Phụng chú ý tới những góc khuất, những nơi tăm Tối của xã hội trước Cách mạng. Ở sự vận động của tứ thơ về tình yêu, Sóng của Xuân Quỳnh thật cồn cào, da diết, còn Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn lại dịu dàng, Nhẹ thoảng mà đằm sâu, lan toả mênh mang. Hệ thống phương thức biểu hiện, các thủ pháp kĩ thuật lưu lại đậm đặc cá tính sáng Tạo của tác giả, từ việc sử dụng ngôn ngữ, tổ chức kết cấu, định vị thể loại cho đến cách Kể chuyện, miêu tả ngoại hình, bộc lộ nội tâm,... Câu văn Nguyễn Tuân rất linh hoạt, Không theo một khuôn mẫu, chuẩn mực nhất định, đó thường là những câu văn dài, xuôi Theo dòng chảy dào dạt của cảm xúc suy tư Kim Lân có lối khắc hoạ nhân vật giàu chất Tạo hình. Nguyễn Khải rất sắc sảo khi để nhân vật độc thoại nội tâm hay đối thoại nội Tâm v.v... Phong cách văn học là cái thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác. Cái độc đáo, Vẻ riêng phải xuất hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại, có tính chất bền vững, nhất quán. Thống nhất từ cốt lõi, nhưng triển khai phải đa dạng, đổi mới. Nguyễn Trãi trong Đại Cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tật rất hào hùng, đanh thép, sắc bén, nhưng trong Quốc âm thi tập lại u hoài, trầm lắng, suy tư. Hồ Chí Minh trong truyện và kí thì hiện Đại, nhưng thơ chữ Hán lại giàu sắc thái phương Đông cổ kính, thơ tiếng Việt đậm cốt Cách dân gian. Độc đáo một cách đa dạng, bền vững mà luôn đổi mới, những phong cách còn phải Có phẩm chất thẩm mĩ, nghĩa là nó phải đem lại cho người đọc một sự hưởng thụ mĩ Cảm dồi dào qua những tác phẩm giàu tính nghệ thuật, hay, sinh động, hấp dẫn. Chỉ khi Đó dấu ấn của phong cách trong quá trình văn học mới được ghi nhớ mãi mãi, không thể Phai mờ, nói một cách hình ảnh như nhà thơ lê Đạt:

“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ Không trộn lẫn” (Vân chữ) LUYỆN ĐỀ Đề số 1: Nhà phê bình Hoài Thanh viết: Thích một bài thơ, theo tôi nghĩ, trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là thích một con người. (Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1982) Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên?

  1. Giải thích
  • Thích là trạng thái, sắc độ cảm xúc yêu mến, nghiêng về cảm tính, khoái cảm.
  • Thích một bài thơ có nghĩa là tác phẩm ấy phải có sức hấp dẫn riêng. Có nhiều yếu tố để gợi ra đam mê nghệ thuật, trước hết là một cách nghĩ, một cách xúc Cảm tức sức hấp dẫn về nội dung; một cách nói hay sức hấp dẫn từ hệ thống các ph-ơng tiện biểu đạt. Tựu trung lại là thích một con ng-ời. Con người ở đây không đơn thuần hay đồng nhất với con người ngoài đời mà đó là một cá tính văn chương, một gương mặt nghệ thuật riêng.
  • Chữ một điệp lên như một nốt nhấn, làm nổi bật tính duy nhất, riêng có của tác phẩm nghệ thuật. Một con ng-ời thực chất là phong cách nghệ thuật. => Ý kiến của Hoài Thanh khẳng định: thích một bài thơ trước hết là thích một con người, thích phong cách của nhà thơ đó. Phong cách ấy phải thể hiện ở cả hai phương diện nội dung và hình thức. Phong cách ấy phải độc đáo (một cách), và chỉ khi đạt tới sự độc đáo về cả bốn phương diện (cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm, cách nói) thì mới có khả năng tạo nên khoái cảm thẩm mĩ cho người đọc. Đồng thời ý kiến còn đề cập đến vấn đề tiếp nhận văn học (mối quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, tác giả),
  1. Lí giải A, Tại sao thích một bài thơ... trước hết là thích một con người, một phong cách?
  • Xuất phát từ yêu cầu của sáng tạo nghệ thuật nói chung và thơ nói riêng: một bài thơ hay là bài thơ có cách nhìn, cách nghĩ, cách xúc cảm, cách nói mới mẻ, độc đáo. (Có thể liên hệ đến ý kiến của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nam Cao... để làm sáng tỏ điều này).
  • Xuất phát từ đặc trưng của thơ ca: thơ là tiếng nói trữ tình. Mỗi bài thơ phải thể hiện một cách chân thực vẻ đẹp tâm hồn, cá tính của chủ thể sáng tạo. Ý kiến của Hoài Thanh gần gũi với ý kiến của Buy-phông: ―Phong cách chính là người‖.